Ngoài phố lá
đổ rào một cơn như buổi chiều muốn qua mau, những đỉnh cây cao vẫn um xanh. Lối
đi cát sạn rào rạo giữa những gốc cây thấp, lá to dầy. Phòng thí nghiệm khoa
học, cửa kính chùi sạch bóng, dấu điện bật sớm, nhiều sinh viên chăm chú làm
việc. Tiếng bóng nỉ nảy bật vang khô, một đôi đang giao đấu trên sân quần tráng
xi-măng, sân sát bên bỏ vắng. Đồng đi đến ngồi trên mặt trụ gạch dưới lối vòng
dẫn lên tòa nhà chính, quay mặt nhìn sân quần. Hai bóng trắng chạy ngang dọc
đuổi theo quả bóng, những câu đối đáp mất hút trong không khí kín heo may. Một
lớp học tan. Tiếng bước chạy xuống các bực thang gạch, tiếng chuyện trò âm vang
trong vòm cao giữa giảng đường và thư viện trường luật. Phố hàng Cỏ đang chạy
thẳng dài trong lối cây xẫm đuổi theo buổi chiều sao sác, một chốc nữa mệt mỏi
chậm chạp trở lại theo bóng đêm cùng ánh điện đường thắp từng loạt nối tiếp.
Nhiều người đi vòng xuống sân lấy xe ra về, những cái lưng lom khom trong các
bờ góc tường. Đồng mỉm cười, đưa tay vẫy một vài đứa quen, không rời chỗ ngồi.
Ê, Đồng, năm nay cũng đi cours hả? Oui. Đâu? Văn-khoa. Đồng chỉ xuống dãy
nhà ngang lụp xụp, lấp sau hàng cây, những phòng học nửa tường lát đá men
trắng, còn để nguyên những rãnh nước rữa, và nhăn mặt riễu cợt. Các lớp học tan
họp biệt lập lẻ tẻ, bỏ trống hằng giờ cái khung cảnh hiu quạnh của khu vườn
dài. Đồng ơi. Đồng. Đồng giơ cao tay đáp người bạn đứng xa tít trong hàng hiên
tối của dãy Văn-khoa vẫy gọi. Không vào học đến đây làm gì? Năm học đã bắt đầu
như nỗi chán chường ủ ê, cả tuần lễ không thấy Cảnh cũng như An xuất hiện. Có
gì xảy đến? Trên sân quần, hai đấu thủ đã nghỉ, đang thu dọn vật dụng vào “sắc”
tay. Tấm lưới sắt cao ở cuối sân cây leo chằng chịt. Hai hàng chụp đèn sơn màu
hắc ín lắc lư trên một nền trời gió. Tiếng giảng bài lẩn khuất. Dưới gốc cây
gạo trụi gần hết lá, chiếc xe đạp của Đồng dựng nghiêng đã trượt đổ từ bao giờ.
Đồng húng hắng ho vài tiếng như lặp
lại một thói quen bỏ quên lâu, đứng lên lững thững xuống chỗ dựng xe.
Đồng dắt xe,
đi chân trên hè vắng, không mục đích. Bây giờ chỉ khoảng bảy giờ, trời tối
nhanh, điện đường đang bật lên lạc lõng trong ánh sáng mầu nhôm hoen của chiều.
Nỗi trống trải hắt hiu. Mọi sự vật đều toàn vẹn, thế giời kín mít đầy đủ. Cơn
sốt đến rất nhẹ, rồi rút đi, làm nóng hơi thở ngoài đầu mũi. Có thể bị rechute. Cũng chẳng có gì khác, thế
thôi. Đồng tựa xe đạp vào mình, tìm thuốc trong túi. Que diêm xòe lên, bụm
trong lòng hai bàn tay khum, ngọn lửa sáng lung lay. Gió rào rào trên những
chòm cây chạy dài. Mùa đông có thể đến bất chợt lúc nào trong một ngày tới. Nhà
thắp đèn, mẹ ngồi ăn với u già nhỏ nhẹ như những con mèo bên cái lồng bàn úp
phần để dành. Im tiếng hết âm điệu của những câu thơ chen chúc chưa thành
hình... Trước mặt, đôi tình nhân khoác vai chụm đầu, đếm bước thủ thỉ. Người
thiếu nữ cười khẽ như một vật rơi không... Tình yêu không chia xẻ được, ích kỷ,
như một tội lỗi, như sự ngoảnh mặt vào mình… Ngoảnh mặt với bè bạn. Hơn gì, khi
tôi chỉ có thể đứng ngoài nhìn người khác như nhìn mình, nhìn với ảo giác thông
cảm: mình đang cùng sống những nhịp điệu hiện sinh của kẻ khác... Đồng dắt xe
xuống đường, nhảy lên yên đạp đến nhà Cảnh. Gian nhà mở ngỏ ngày đêm, hai cánh
cổng đã long hư khó đẩy đóng. Lối vào rộng đi qua những cửa số của tầng dưới,
chỗ ở của gia đình chủ trương chật chội và kiểu cách, vòng rào sân sau chật
ních người trong bếp và quanh bể nước. Cầu thang tối kín, hẩm hơi. Cảnh vắng
nhà. Đồng đứng tần ngần trước cửa buồng đóng. Buồng gác chính bên cạnh, người
ta đang ăn cơm chiều, tiếng bát đĩa xô động, mùi cơm nóng bay phất. Đồng trở
xuống thang gác, thất vọng. Rồi đến một ngày, chúng nó bỏ đi hết. Và tôi, vẫn
bệnh hoạn mơ mộng. Cũng đến thế thôi. Đồng cười khì như có Thạch trước mặt. Ghé
hàng cơm tháng, cũng không gặp Cảnh. Đồng bâng khuâng đạp xe dọc theo phố hàng
Bông, giữa những cửa hiệu sáng, không thấy đói, chỉ nghe mệt một cách êm ái.
Giờ này có lẽ Nga ngồi ở phòng khách sau bữa cơm với mẹ và An, nàng dạo những
hòa âm trên dương cầm, đứng tựa cửa sổ phòng riêng nhìn những đám lá trong vườn
khép ngủ và con phố uốn vòng vắng ngắt dưới ánh điện nghe gió thổi từ mạn đê
cao vào thành phố trên những mái nhà. Cô đơn trong một gian buồng ẩm. Ông Phát
đã ra làm bộ trưởng. Và Nga... Đồng chưa gặp Nga, nhưng nghĩ rồi cũng như Hà và
Phương, Nga sẽ không bao giờ thuộc về mình. Chân vẫn đạp đều, Đồng ngoảnh mặt
nhìn vào các cửa hàng sáng trưng vắng vẻ, trên các bờ hè đám đông của những
chiều mùa hạ cũng đã tản. Về đến phố Quan-thánh, Đồng đạp xe nhiều lúc một mình
giữa đường nghe gió thổi ù hai bên tai. Ngang qua biệt thự của gia đình An,
Đồng ngửng trông khung cửa sổ sáng dịu lấp sau những đám lá, buông chân mặc xe
lăn theo đà. Gió thổi lộng trên hồ Tây, trong vườn Bách-thảo, khu Biệt-điện.
Bên trong hàng rào trường Bưởi, những mặt tối đen la hét inh ỏi cho đỡ buồn.
Các quán rượu ngoại ô, đèn xanh trơ trẽn. Đồng dắt xe đi trên ngõ gạch vào nhà,
không có ánh sáng soi lối, hít mùi hương những bụi cỏ rậm, nghe những nhịp nổ
âm đều đặn của đại bác vọng từ bên kia bờ sông Cái, cách con đê, mặt hồ Tây ở
chỗ rộng lớn nhất.
Trinh ngồi
khuất sau mấy bao gạo, đan áo, đứng lên tay vẫn không ngừng nghỉ:
— Lâu không
thấy anh lại chơi.
Cảnh hỏi:
Cậu có nhà không? bước qua đống than vụn. Trinh thò mặt vào buồng trong gọi:
Thưa cậu, anh Cảnh đến... Ông Trương nằm trên ghế xích-đu, đọc báo, miệng phì
phà ống píp. Cảnh đến ngồi trên chiếc ghế đẩu, cạnh bàn nước: Cậu vẫn thường.
Ông Trương gõ gõ ống nõ vào chân ghế, hơi ngồi dậy hỏi: Bây giờ con làm gì? Vẫn
đi học chứ. Trên trang nhất tờ báo ông Trương đang cầm có in một bức ảnh ông
Phát, Cảnh hỏi mượn tờ báo nhìn ngắm. Lần đầu tiên mới biết mặt bố của An. Có
bị gọi động viên không? Con thấy tình hình thế nào? Ông Trương bắt đầu câu
chuyện cố hữu của ông, chuyện chính trị thời sự theo lối của một công chức già
bất mãn, hèn nhát, giao động. Xã hội thối nát, công chức quan liêu hối lộ,
chính quyền luồn lọt nô lệ... chừng ấy đề tài nói mãi ngày này qua ngày khác,
năm này qua năm khác, trong sở khi rảnh rỗi, ở nhà trong bữa cơm, với người
quen kẻ thuộc những lúc trà dư tửu hậu nhưng ông vẫn ngày hai buổi đến sở cạo
giấy, lĩnh lương, lĩnh “ráp-pen”, buôn bán tậu nhà cửa... Cảnh ngồi im nghe như
chịu một cực hình, mong sớm chấm dứt để được ra ngoài nói chuyện với Trinh.
Trong gia đình ông cậu, người họ duy nhất ở Hà nội, Trinh là đứa em hợp với
Cảnh nhất; Trinh là con thứ hai, sau một người chị và trên ba đứa em gái một
đứa em giai. Bà mợ vắng nhà, bà là người Cảnh ngại gặp nhất, miệng lưỡi ngon
ngọt dẻo như kẹo mật nha tính toán chỉ ly và ích kỷ tột bực. Ngày cảnh mới vào
thành, tìm đến thăm ông cậu, không hề có ý nhờ vả, bà đã vội than thở nhà cửa
chật chội, con gái lớn và nói ngay: “Giá nhà rộng thì cháu ở lại luôn đây trông
nom dạy dùm mợ thằng Việt là tốt nhất... Phải không cậu?” Cảnh cười gần đốp
chát: Cám ơn mợ, cháu đã có chỗ ở. Cảnh ở nhờ trong chùa, hằng ngày đi tàu
điện, lên phố vào thư viện tự học, buổi trưa ăn bánh mì trong nhà gửi xe, chiều
làm précepteur một hai tiếng cho một
gia đình ở hàng Bạc, trong hai năm xong Tú tài. Thỉnh thoảng Trinh vẫn đến thăm
Cảnh, nhất là từ khi lên chuyên khoa, thường tìm gặp hỏi han ý kiến về việc học
hành, trong khi hằng năm Cảnh không đặt chân đến nhà ông cậu ngay cả những ngày
giỗ Tết. Ông Trương bàn luận một lúc đã hả hơi, bật người ra sau, chiếc ghế lúc
lắc, cắn chặt chiếc píp nhìn trấn nhà. Trẻ con reo hò ngoài hè vọng qua gian
nhà ngoài vắng vẻ chật chội những bao hàng cồng kềnh.
— Cháu đến
chào cậu. Cháu sắp xuống Phòng dạy học.
— Thế à? Bao
giờ đi? Thỉnh thoảng viết thư về cho cậu biết tin. Con có được tin gì về thày u
con ở ngoài không?
Cảnh gấp gọn
tờ báo, để lên bàn. Từ trên gác vọng xuống tiếng nheo nhéo của mấy đứa em gái
Trinh, Cảnh không nhớ rõ hết tên của những đứa con ông cậu. Từ ngày chiến tranh
bỏ nhà theo Trọng, Cảnh chưa lần nào về thăm gia đình và cũng không được tin
tức. Những lúc cô đơn buồn bã, Cảnh nghĩ tới làng quê như nghĩ tới một cảnh
tượng quen đã mất, không xúc động nhiều lắm. Cuộc đời tẻ nhạt không kỷ niệm
ràng buộc sâu xa, những ý nghĩ lớn lao về đời sống xâm chiếm ngay khi trưởng
thành xóa sạch tuổi ấu thơ trong ký ức. “Người hoạt động không thể có những
liên hệ gia đình chật hẹp…” Trọng hay nói thế và Cảnh cũng thường nói với bọn
Đồng ý nghĩ ấy, nhất là Đồng, hắn có tâm hồn thi sĩ. Trong cuốn sổ tay của
Trọng chép lại đủ bản Le catéchisme du
Révoluntionnaire của Bakounine.
— Anh Cảnh,
anh cho em hỏi riêng anh cái này...
Trinh nhắc
chiếc ghế đặt vào góc tường mời Cảnh, ông Trương bỏ đi lên gác. Mùi tấm và vải
bố hăng hắc. Ánh điện ngoài hè phố và buồng trong không soi tỏ được hết cả gian
buồng ngoài. Đầu Trinh cúi khuất, ngón tay trỏ hơi cong đưa đẩy thoăn thoắt.
— Anh định
xuống Hải-phòng hả? Bao giờ?
— Vài hôm
nữa.
— Anh không
học nữa à?
— Phải lo
kiếm ăn chứ.
Cảnh cười,
tiếng cười gãy khô nửa vời. Trinh ngừng tay, giơ cao mũi kim ra chỗ có ánh sáng
đếm những mũi len chăm chú, mi mắt cúp xuôi, tóc lòa xòa trên trán. Trên tấm áo
cánh trắng, một chiếc áo len cụt tay xẩm không rõ mầu. Trinh xoay đổi kim tiếp
tục công việc, cuộn len nằm gọn trong khoảng hai đùi khép. Cảnh chống khuỷu tay
vào một bao gạo kế bên, vải bố sơ nháp những hạt gạo kêu rào rạo.
— Anh đã sơi
cơm chưa?
— Chưa. Chốc
nữa về ăn. Ăn tháng ở hiệu cũng dễ...
— Anh xuống
dưới dạy trường nào?
— Chưa biết.
Có khi ít lâu lại về Hà-nội không chừng.
Trinh ngừng
tay, ngước mắt tò mò, cầm kim đâm xuyên vào trong mái tóc. Cảnh mở chiếc khóa
áo blouson, nghe không khí nồng nực, đi ra khỏi những bao gạo án ngữ trông ra
phố. Ngoài bờ hè chiếc xe bán mía hấp của người tàu đậu, ngọn lửa khí phụt
xanh, tiếng rao ề à vang khắp phố ngắn. “Dì chê tống chê, tống chê dì chê”.
— Chín giờ
chưa nhỉ?
— Hãy còn
sớm mà anh.
— Tôi phải
về ăn cơm chứ.
Nguyên từ trong nhà chạy ra như bị đuổi: Chị Trinh, mợ chưa về? đứng
khựng lại ngượng nghịu khi thấy Cảnh, cúi đầu chào. Cảnh chỉ mỉm cười gật đầu.
Nguyên vừa đi ra cửa vừa ngoái cổ lại: Em sang bên con Loan một tí nhớ chị
Trinh? Cảnh bỗng ngượng cảm thấy mình xa lạ với mọi người khác trong gia đình
này.
— Anh có
thích xem kịch không?
— Tôi không
thích lắm.
— Em có
thiệp mời mai xem đây...
— Kịch gì
đấy?
— Lôi Vũ.
— Thế hả.
Tôi đã đọc nhưng chưa xem. Cô biết vở kịch ấy chưa?
— Hay lắm
phải không anh. Em nghe đồn như thế...
Cảnh tựa
lưng vào đống bao gạo, nhìn vào mảng ánh sáng ngoài đường hắt chếch vào tường.
Phố xá đã vơi, sự im lặng từ những phố buôn bán đông xung quanh lùa tới theo
những cơn gió thu vào con phố hẹp và ngắn này. Cảnh muốn thuật lại vở kịch, nói
rõ chủ ý của nó cho Trinh nghe. Tôi không biết giảng giải như thế nào hay không
giảng giải nổi. Cảnh thọc tay vào túi áo blouson
mân mê mấy que tăm lấy ở hiệu ăn buổi trưa. Trọng giờ này đang ở nhà, anh đang
đọc sách, đợi về đi uống cà-phê. Sẽ nói với anh ở hiệu, phải bình tĩnh để dẫn
giải, không thể chần chừ mãi. Anh sẽ phải hiểu.
— Sợ cô xem,
cô không hiểu.
Trinh ngừng
công việc, quấn lại cuộn len, vuốt tóc và nghiêng đầu. Chiếc xe bán mía đã rời
chỗ, bây giờ tiếng rao nghe mãi tận đầu phố. Người tớ gái từ trong nhà ra sửa
soạn lên cửa, những cánh cửa rời đánh số xếp chồng ngoài vỉa hè.
— Thôi tôi
về. Cô nói tôi gửi lời chào cậu mợ.
Trinh đặt
cuộn len lên ghế, đứng dậy bước theo chân, đưa tiễn đến cửa. Cảnh đứng lại
ngoài hè, trong khi người tớ đẩy cho các cánh cửa gỗ chạy vào đường rãnh: Chào
cô hả, cố học thi đỗ năm nay. Trinh vịn vào cánh cửa, mai anh có nhà không?
Trước khi đi xem kịch em ghé lại thăm anh. Có chuyện gì không? Cảnh quay lưng
bước, gặp Nguyên đi xăm xăm ở chỗ rẽ đầu phố, tiếng guốc gỗ ròn. Nguyên quay
nhìn Cảnh, không chào, như nhìn một người lạ mặt. Vượt qua ngã tư rẽ vào đường
vòng ngắn, Cảnh ra tới bờ Hồ. Hà-nội đang ngủ dần trong ánh điện mờ dấu, các
bóng cây tối, mặt hồ khuya vắng. Cảnh đi theo đường bên hồ, gặp những ghế đá
trống lộ liễu dưới ánh đèn sáng gắt. Đêm giao thừa trước còn ngồi thức với
Thạch và Đồng trên ghế đá trông sang công viên tối tăm lạnh lẽo, hút hết sạch
thuốc lá, với những dự tính tương lai. Cảnh đi dưới các vòm cây của đại lộ
vắng, bình thản, sự quyết định làm cho tôi trở nên vững vàng già dặn hơn, không
gì có thể lay chuyển. Đã hết cái giai đoạn hoạt động tài tử: họp tiểu tổ, thảo
luận tình hình, phê bình kiểm điểm công tác, cái loại công tác: phổ biến tài
liệu tuyên truyền, tin tức, dò xét tinh thần sinh viên học sinh, soạn thảo
truyền đơn để ném trong các lớp học... Chỉ còn một vấn đề duy nhất là đối mặt
với Trọng. Vấn đề khó khăn nhất. Có thể nào lặng lẽ bỏ đi và để thư lại được
không? Trọng, chỉ còn Trọng là đáng kể... người khác... mỗi người một ngả...
Trọng đang
ngồi im trước bàn như tham thiền, miệng lẩm nhẩm không thành tiếng, choàng mở
mắt cười: Đang học Ăng-lê. Đi đi uống cà-phê. Cảnh nói: Tôi chưa ăn gì cả. Dưới
nhà tiếng khóc i ỉ của người thiếu nữ cuống trí, con người chủ trương. Ở ngoài
đường, Cảnh nghĩ ngợi sắp đặt câu chuyện sắp nói với Trọng.
— Tôi đã gặp
ông Đức. Ông ta sắp vào Sài-gòn. Ông khuyên bọn mình nên vào trong ấy dễ hoạt
động hơn. Hà-nội trước sau cũng mất. Cậu nghĩ thế nào?
— Chuyện
ngoài kia ra sao?
— Hỏng hết
rồi. Sắp sửa đến lượt bọn mình phải... Dân chúng bắt đầu thất vọng. Ông Đức
nghĩ phải khởi xướng một ý thức hệ mới thay thế.
Ý thức hệ
mới. Những danh từ, lực lượng thứ ba. Những cái đó như một bầu dưỡng khí cứu
người bệnh trầm trọng. Nhưng tìm đâu ra? Thạch hay kêu: phải mở một lối thoát
và rốt cuộc hắn lao đầu vào hư vô. Trọng vào quán gọi cà-phê ngồi đợi. Cảnh ăn
phở ở hiệu gần đấy. Lúc Cảnh trở lại, Trọng ngồi một mình lạc lõng, mắt hấp him
sau đôi kính và đang ngáp. Phin cà-phê nhỏ vẫn chưa hết. Cảnh kéo ghế, gây
tiếng động, nhưng cũng không phá được sự im lặng.
— Có lẽ, cậu
xuống Phòng tôi sẽ đi kiếm buồng khác cho tĩnh. Nhà ồn quá không đọc được. Nhất
là đêm nghe cái tiếng khóc tôi cũng muốn điên nốt.
— Thường là
tôi ở ngoài thư viện suốt ngày.
Đã nên bắt
đầu chưa. Trọng nhấc cái phin trắng lóa ra khỏi tách, mở nút bình thủy đun nước
sôi. Cảnh đi ra quầy mua thuốc lá, người đàn ông bán hàng vỗ vỗ bao thuốc nhón
rút lấy ba điếu đặt lên trên đĩa nhôm, giơ bao thuốc lên nheo mắt nhìn vào
trong đếm, rồi mang đặt trước mặt Cảnh.
— Anh hút
không?
— Thì thử
xem sao.
Trọng ngậm
thuốc giữa môi, châm lửa vụng về, nhả khói um sặc, cầm khăn tay chùi kính và
mắt. Cảnh cười:
— Có lẽ đầu
tuần tôi sẽ xuống Đăng... Nhưng... độ một tháng tôi sẽ lên. Tôi định...
— Hả.
— Tôi ra
ngoài.
Trọng đeo
kính vào mắt, nhìn trừng trừng dò hỏi.
— Tôi nghĩ
tôi phải báo với anh là tôi ra ngoài. Sống mãi trong vùng này, tôi chết dần
chết mòn hết cả tin tưởng. Cái vị trí mình chọn nó lập lờ quá. Dù sao ra ngoài
kia, tôi có ích hơn. Tôi không được như anh, tôi không có một quá khứ, một công
việc phải tiếp tục đến cùng. Tôi mới bắt đầu mà bắt đầu thì tôi nghĩ ở ngoài
kia hơn... Tôi biết tôi làm anh buồn nhưng tôi còn trẻ, tôi muốn được thí
nghiệm, muốn có kinh nghiệm có thể tôi sẽ trở lại với anh và cũng có thể tôi
mất hút...
Cục gù ở cổ
Trọng nhô lên, trụt xuống. Mặt anh đỏ ửng dẫn.
— Anh đừng
nghĩ là tôi phụ anh. Tôi hiểu anh tin cậy tôi nhất. Tôi chỉ muốn trung thành
với chính mình trước đã. Tôi không bao giờ quên chính anh là người mở óc cho
tôi. Anh muốn tôi được tự do nhận định lựa chọn lấy con đường phải đi... Chắc
anh không nỡ ngăn tôi. Anh cứ để cho tôi... biết đâu chẳng là bài học hay cho
tôi.
— Cậu có thể
làm một cử chỉ hy sinh vô ích. Chỗ của cậu không phải ở đấy.
Trọng nói
khẽ, Trọng kìm giữ xúc động. Môi anh mím lại, cằm bạnh ra và bắp thịt bên má
giật động.
— Tôi đã suy
nghĩ đắn đo cả năm nay trước khi quyết định. Tôi nghĩ muốn gì tôi cũng phải
trải qua giai đoạn cần thiết này. Một là mất, hai là còn.
— Vậy nghĩa
là tôi không thể nào thay đổi được ý của cậu nữa?
Cảnh bưng
tách cà phê lên uống, dấu mắt mình. Ánh đèn pha ô-tô từ chỗ khúc quành soi quét
vào trong quán.
— Cậu biết
rõ tôi đấy. Ông bố tôi là nhà nho nhưng lại có tư tưởng xã hội. Có thể kể ông
vào loại chiến sĩ xã hội đầu tiên tại nước này. Ông bác tôi cắt mạch máu chạy
giữa đồng cho đến chết sau vụ Sô-viết Nghệ-an. Gia đình tôi phải bỏ xứ ra
đây... Như thế cậu rõ là tôi không thể... Các em tôi chúng còn ở cả ngoài ấy.
Chẳng lẽ cậu nghĩ rằng tôi cũng chỉ là một thứ phản động...
— Không, vấn
đề này là của tôi, không dính líu gì đến anh.
Trọng tháo
kính xuống chùi nữa, mắt anh đỏ hoe. Có lẽ anh đang nghĩ anh trơ trọi có một
mình. Anh chùi miệng, rồi rũ rū chiếc khăn tay để gấp lại. Trông giây phút,
Trọng già xọm, xa cách hẳn như những mùa hè xưa anh về nghỉ ở nhà Cảnh kèm cho
Cảnh học; người trong xóm gọi anh là Cậu giáo nhà ông Trưởng Bạch.
— Tôi tin ở
cậu. Cậu thành thực lắm nên tôi không biết phải giữ cậu bằng cách nào. Cậu
thành thực và mai kia cậu cũng có thể thành thực khi phải thủ tiêu... tôi chẳng
hạn.
Giọng của
Trọng cứng lại, chua cay. Cảnh nổi giận, ngồi lặng. Sự lựa chọn nào cũng khốc
liệt thế chăng? Trong mắt anh, tôi như thế nào. Con người tôi đã đổi mà không
hay biết. Cảnh ngừng nhìn cố sức biểu tỏ thái độ bất mãn. Trọng cười nhạt,
không âm vang:
— Tôi vẫn sợ
cái ngày hôm nay. Các cậu còn trẻ không chịu đựng được thử thách. Hết Hòa, bây
giờ là cậu. Và tôi không làm được gì hơn là một mớ lý thuyết xuông.
Cảnh vẫn im.
Rời quán cà-phê, Trọng cũng nín thinh luôn. Cảnh nghe ớn lạnh buồn bã khi nghĩ
đến phải nằm chung với Trọng trên cùng một tấm phản trong gian buồng chật hẹp,
nghe tiếng khóc nỉ non của người thiếu nữ rách rưới tự nhốt mình trong một só nhà tối.
Buổi đầu
tiên trở lại tìm Phúc một mình, An đẩy cánh cửa buồng khép quên gài then, vội
vàng quên gõ cửa, muốn trốn khuất những cặp mắt tò mò theo rõi từ dưới sân,
trên cầu thang và trong các buồng mở cửa—những cặp mắt soi mói khó chịu mà dù
đã thường lui tới An vẫn bị nhột nhạt—nghe tiếng Phúc hỏi: Ai đấy? Làm sao lại
vào được; Phúc đang nằm với một người đàn ông. An ngồi lỳ trên ghế, ngại tháo
lui, gặp một ông công chức già bỏ sở đi chơi đến sau, ông gật đầu chào; Phúc
cáu kỉnh: Đóng cửa lại. Đóng cửa lại; vị công chức bối rối bỏ đi ngay, người
đàn ông trong giường pha trò: ồ, có gì là lạ... Phúc gắt: còn ai ở
ngoài, xin mời ra cho tôi đóng cửa. An lặng thinh đứng dậy, bước mau xuống cầu
thang, gặp ông công chức đứng đón xe ở đầu phố. An trở lại tìm Phúc ngày hôm
sau tại lớp học nhảy và hỏi: Tại sao lại đuổi anh? Phúc xin lỗi: Em không biết
là anh, em xin lỗi. An đưa Phúc vào nhà, đi bộ qua các phố nhỏ vắng khuất, kéo
dài con đường, những phố thường chẳng mấy khi qua, như một cặp tình nhân lãng
mạn. Tại sao không? Những buổi chiều ấm gió, thổi lên tà áo xẫm màu, khuôn mặt
không son phấn hơi nhợt của Phúc, cử chỉ nền nã tự nhiên. An nằm lại trên
giường của Phúc lâu hơn, lười lĩnh và mỏi mệt và một vài lần Phúc phải từ chối
những khách đến sau ở ngoài bao lơn. Một buổi Phúc giữ An lại: Em mời anh ăn
cơm. Ở lại xem em thổi cơm. Phúc mặc áo cánh, thổi cơm bằng bếp cồn, đi lại bận
bịu như người đàn bà nội trợ ngoan ngoãn. An có hẹn tới dự lễ sinh nhật Khiêm
và nhớ chưa mua đồ mừng, An mặc quần áo bảo: Anh sẽ về ăn cơm, phải ra phố có
chút việc. An lang thang ngoài Trường-tiền, vào phòng Thông tin Pháp xem báo,
dán mũi vào các cửa kính. Khiêm sẽ lại mặc áo mới, tiếp bè bạn bọn con gái
trường giả, bọn con giai đàn ông đang ngấm nghé vợ và địa vị xã hội. Ông Huyện,
bà Huyện trịnh trọng ra phòng khách mươi phút, chào hỏi bạn bè của con, thăm
hỏi về bố mẹ của chúng xong rút lui lên gác. Khiêm thổi nến, cắt bánh, vỗ tay
cười đùa, đứng giữa phòng kéo violon, lần lượt đứa kể chuyện đứa hát, những bài
hát của kháng chiến. Và điện sẽ tắt trong năm phút, chỉ còn nến cho không khí
thêm quý phải; như năm ngoái An lén hôn Khiêm dữ dội kiểu Lê-dương. An mua một
lọ nước hoa, mang về cho Phúc nói: Anh tặng em; Phúc cảm động, Trong bữa ăn,
Phúc săn sóc như một người vợ yêu chồng. Sẽ ở lại với Phúc, anh sẽ ở lại với
em, được không? An nói khi nằm nghỉ trên giường đọc báo, Phúc bế con ngồi bên.
Chỉ sợ anh không dám. Sao lại không dám? Tối ấy An trở về nhà, Nga hỏi: Anh đi
đâu không đến chị Khiêm? Ông bà cụ vẫn chưa về. Buổi sáng khai giảng niên khóa
mới, An bỏ ý định đến lớp và xuống Phúc. Vào giấc này, khoảng sân vắng dễ vượt
qua hơn, nhưng An đứng trước cửa phòng đóng kín ở trong. Một bà cụ già hom hem,
bẩn thỉu ở cầu thang lên nói: Cậu qua buồng tôi ngồi chơi. Đứa con trai của
Phúc lê la dưới đất quanh mấy chân ghế, bà cụ mẹ Phúc lên nằm co quắp trên phản
cạnh khay đèn: Cậu quen với cậu Lân? Cậu Lân quen với nhà này lắm. Cậu biết hút
không? Làm thử một điếu... Món này tốt lắm. Phúc sang và ngượng khi thấy An
ngồi trên ghế nhìn đứa con nhỏ. Phúc nói: Em định vài tháng nữa kha khá xin đi
làm vũ nữ... Dù sao cũng còn hơn thế này. Hôm ấy An không nói gì cả, sự im lặng
trong tác động ân ái làm nở một thứ tình yêu, tình yêu chăng, tình yêu nặng
nhọc và tối tăm. Một cảm giác cô đơn trong hầm tối. Phúc, tôi có thể ở với Phúc
và mọi ràng buộc sẽ đứt tung. Tôi sẽ là người khác. Không còn chút liên hệ nào
với cái thế giới thân quen.
Buổi sáng
Nga gõ cửa buồng, nhét tờ báo xuống khe cửa, nói vọng ở ngoài: Ông “bô” làm bộ
trưởng rồi, chắc là tuần này về. Có một ông tên Lân hôm qua đến tìm anh. An
không biết phải làm gì hơn là tìm xuống Phúc. Phúc hỏi: Anh không chán em à? An
đáp: Không chán nổi, tối nay anh ở lại đây. Được không? Buổi trưa gian phòng
không cửa sổ, kín hẩm, mồ hôi thấm lạnh. Khách gõ cửa, Phúc nằm im không đáp,
tiếng gõ cửa mạnh hơn, An la lớn: Va-t’en,
salaud. Phúc bật quay người bịt miệng, An vùng vằng đầu, thuận tay tát mạnh
vào đầu Phúc. Phúc kinh hoàng bất động miệng há ra như sửa soạn gào. Ngoài khe
cửa có tiếng hỏi ghé vào: Anh An ở trong phải không? Không có An nào hết, imbécile. Rồi An rớt xuống sự mệt nhọc
bình thản nghe tiếng thổn thức của Phúc, cái lối của Thạch có vẻ hiệu nghiệm,
nhẹ nhàng thoải mái, khỏi mất công. Lát sau An quay sang vỗ về Phúc: Việc gì em
sợ. Em sợ anh. Sợ anh, sợ anh thì phải nghe anh, An cười thành tiếng. Anh yêu
em, anh thương em, anh sẽ ở lại đây với em, em bằng lòng không? Phúc không nói,
Phúc chỉ có hai bàn tay để nâng niu vuốt ve các bộ phận trong cơ thể. Gương mặt
hiền hậu trở nên đần độn. Chiều đến An vẫn còn ngại gặp Lân ngoài
cửa, bắt Phúc mở ra xem trước. An đưa Phúc đến lớp nhảy, hẹn sẽ quay lại đón và
trở về nhà. Nga đi học. An đi lại từ trên gác xuống nhà nghiền ngẫm ý định.
Gian nhà yên tĩnh, mát mẻ, trời ẩm đục. Tôi sẽ bỏ đi như người mất tích. Sống
với một người gái điếm. Tôi sẽ ở được bao nhiêu lâu? Tương lai? An nghĩ nên xuống
gặp Đồng. Để làm gì? Tôi phải sống cho tôi, tôi yêu Phúc, tôi yêu Phúc hay tôi
bỏ trốn. Khi An trở lại, trong buồng nhảy chỉ còn một vài người. An gọi xích lô
ngồi chung với Phúc, không dấu diếm. An bảo: Anh nói thực đấy, em nghĩ thế nào?
Phúc hỏi: Anh nghĩ kỹ chưa? Em không ra gì, em có con, em sẽ làm khổ anh. Không
có gì đáng kể miễn là em yêu anh. Phúc vuốt ve cánh tay An khiến mọc gai: Rồi
anh sẽ hối hận. Còn tương lai của anh... An ngửng nhìn những đám lá rào rào và
những chiếc lá vàng bay rụng cười xòa. Buổi tối ăn cơm xong, khi An lên giường nằm
chìa tờ báo chỉ cho Phúc: Ông “bô” anh đấy... Phúc nói: Thôi anh về đi, lúc nào
anh đến đây em chẳng là của anh. An liệng tờ báo sang bên: Không phải thế,
không phải thế đâu. Phúc vuốt ve mặt An, nhìn ngắm với vẻ lạ lùng. Và một lát,
Phúc bắt đầu bàn tính tương lai. Sẽ dọn ở chỗ khác, trốn biệt nhà người quen,
tạm thời Phúc muốn đi nhảy kiếm tiền nuôi cho An học. An bật cười: Anh sẽ ăn
bám em, không đời nào...
Bây giờ vẫn
còn trong giờ giới nghiêm, ngày chưa lên, chỉ nghe gió nổi ngoài phố. Những hồi
đại bác, lối nửa đêm khi mệt thiếp, cũng im bặt. Vòi nước dưới sân nhỏ giọt,
lâu lâu chảy thành giòng mỏng yếu. Mất quen dần với bóng tối, đình màn hiện ra
mờ như làn sương đục. Phúc ngủ say, hơi thở nặng, đầu tóc xổ. An nằm đè lên,
nhờn nháp một bên mạng sườn. An nằm không động đậy, như được chở trên một chiếc
thuyền khẳm sắp chìm, chỉ mới chưa đầy một ngày, gia đình thấy đã như xa cách
hẳn, chập chờn trong những ý nghĩ dồn dập như sóng. Cả cái thân thể bóc trần
dưới chăn không còn thuộc về mình nữa, yếu đuối lẻ loi. Những ngày sắp tới như
một cái hõm sâu, tối, tối hơn gian buồng này, tối hơn những lúc bị cuốn hút vào
trong thân Phúc. Một người già cả nào ở trong một gian buồng xa ho sù sụ. An
đặt tay lên ngực Phúc, hâm hấp nóng, nghe một cảm giác phi lý kỳ quặc. Bất cứ
lúc nào tôi cũng có thể bỏ về nhà, chỗ của tôi vẫn còn nguyên, nhưng tôi cứ
muốn ràng buộc với Phúc. An nghĩ lại những dự tính, tưởng tượng những hành động
tương lai. Tự chôn vùi mình để thay đổi và tôi sẽ thành cái hình thù thế nào.
Tiếng chuông đồng hồ reo vang, Phúc thức dậy mò mẫm bật đèn ngủ, ngạc nhiên
thấy An còn thức, Phúc bò trên ngực An. Anh không ngủ, và vục đầu vào cổ An. Em
yêu anh không? Hứ, hự. Em sung sướng không? Có. Chúng mình sẽ nuôi con, con của
em là con của anh. Anh sẽ làm việc cho nó. Phúc, em ngủ đi. Không, em thức với
anh. Tại sao em để đồng hồ báo thức. Em dậy
sớm để đi lễ. Đi lễ hả? Em sửa soạn đi, chắc sắp hết giới nghiêm. Em không muốn
đi nữa, em muốn nằm với anh cơ. An nghe sức nặng dồn vào thân mình, đồng thời
như muốn nhấc bổng mình lên. An nhắm chặt mắt, buông xuôi tay không muốn bám
víu. Em yêu anh, em yêu anh...
Anh ngủ nữa
đi kẻo mệt. Em yêu anh. Anh lạnh không? Anh yêu em thực không? Anh không biết
đời em khổ biết là chừng nào. Nếu anh bỏ em, chắc em chết. Anh, anh đừng đánh
lừa em. Hì, không, anh chỉ lừa anh thôi. Anh nói gì? Không. Anh muốn gì anh cứ
nói, em sẵn sàng làm hết cho anh. Đời em không có nghĩa gì, chỉ anh là đáng kể.
Hì, anh cũng không đáng kể... Anh ngủ chưa? Em đi lễ anh nhé. Ừ... Cửa mở và
gió thổi lùa. Ngoài phố, tiếng bánh xe bò lăn lịch kịch, tiếng rao hàng bánh
tây kéo dài lê thê…
Cảnh dậy
thật sớm, những biệt thự xung quanh còn say ngủ, qua những kẽ hở của cửa sổ
đóng kín nhìn thấy ánh mờ tối, nghe tiếng đàn dưới bếp đang đun nước buổi sáng.
Giấc ngủ làm Trọng co quắp thảm hại, nét mặt nhăn nhó. Bước xuống cầu thang còn
chập choạng nồng những hơi thở phì phò dưới các bục gỗ, Cảnh rửa mặt bên bể
nước quay lưng lại phía những người đàn bà ngồi xổm trước các bếp lửa cháy
hồng. Người thiếu nữ cuống trí, đêm qua phá phách chạy nhào ra cổng trong giờ
giới nghiêm, chắc đã bị trói và mệt thiếp đi. Cảnh rùng mình khi ngửng lên nhìn
màn trời nhờ mầu sương, bầu trời trải trên những cánh đồng nước buổi chiều
chiến tranh dữ dội. Ngoài phố còn vắng tanh, chiếc tàu điện sớm chạy mau trong
phố xa. Cảnh đi vào phố hàng Bông, hai bên hàng phố chưa mở. Từ trên tàu điện
ngoài Ô Cầu-giấy vào, những người đàn bà nhà quê mua phân của thành phố ném vội
những đôi quang gánh và thúng không xuống giữa đường, rồi chia tản chui lẫn vào
trong các cánh cửa hé sớm hoặc các ngõ dẫn vào cửa sau. Khoảng tám chín giờ sáng,
họ kĩu kịt gánh đi trên hè mùi xú uế nực phố xá, đón tầu về làng. Qua bờ Hồ,
Cảnh chỉ gặp những người lao động đi làm sớm. Tháp Rùa nổi xa hơn trong một làn
sương mỏng, một vài chiếc xe vận tải nhà binh chạy rầm rập không đếm xỉa đến
tốc lực. Cảnh ghé vào trong kẹt ngách lọt trong tòa nhà lớn của phố Trường-tiền
ăn sáng; kẹt chật hẹp có hình chiếc mui cong dần, có lẽ nằm dưới một chân thang
không thể trông thấy. Bánh tây dòn, cà-phê nóng. Bánh nướng trên vỉ sắt, trước
khi được mổ đôi, nhồi “ba-tê”, rắc muối tiêu đựng trong hộp thuốc 999 lóc xóc.
Cà-phê đun trong ấm sắt đặt trên bếp lò quạt luôn tay, than nổ tí tách. Cảnh
ngồi quay mặt ra ngoài hè, chỉ thấy một khoảng ngắn những viên gạch ô vuông
nhỏ, bờ lề đá xanh lỗ rỗ, một cây cột của mái hiên bên kia vỉa hè, cánh cửa sắt
kéo lên xuống che một mặt tủ kính. Một người dựng xe đạp ngoài vỉa hè, sách túi
bao da vào hiệu, cất bánh tây. Cảnh ăn chậm chạp đợi thời khắc trôi qua, nghe
tiếng động buổi sáng dâng lên từ từ trong phố.
Cảnh đi bộ
trở ngược về thư viện. Hiệu thuốc tây lớn ở góc bờ Hồ đổi chủ, hai ba người thợ
mộc đang bắc thang sửa lại tên bảng hiệu. Tên dược sĩ này giàu thật nhanh,
chuyên bán thuốc cho hậu phương, hắn ủng hộ kháng chiến đấy. Sống làm sao nổi
với đám trí thức trong thành này. Một lớp trí thức mới... Cảnh muốn có Thạch ở
đây để hỏi: Cậu tin tưởng vào cái gì mới được? Chắc chắn hắn sẽ văng tục: Merde. Thư viện chưa mở cửa. Cảnh bước
lên trên bãi cỏ còn ướt, đến ngồi dưới gốc đa, chiếc rễ cây ẩm. Trong nhà chứa
xe, một vài người đang ăn sáng của hàng vợ chồng người lao công giữ xe của thư
viện. Trên thềm, trước tấm cửa kính dầy nặng nổi vân viền sắt đen, hai người
ngồi quay mặt trông ra đường. Luống hoa vàng nhạt, đỏ hoen chạy viền quanh bãi
cỏ. Cảnh thoáng nghĩ đến cuộc hẹn buổi tối. Không hiểu thái độ của Trọng như
thế nào từ giờ cho đến ngày lên đường? Thật khó khăn cứ phải nhìn nhau hằng ngày và biết không thể nào còn đồng ý
với nhau được nữa. Trong trường hợp phải quay trở lại? Đám người tụ tập trước
bực thềm đông hơn, trong ấy có Trọng. Có lẽ anh không nhìn thấy, mắt cận thị
nặng, anh cắp chiếc cặp da đen cũ, ngờ nghệch, lạc lõng. Từ ngoài cổng, ông già
trông nom trật tự phòng đọc sách, có nhiệm vụ nhắc nhở những người trò chuyện
ồn ào hay đánh thức những người ngủ gục buổi trưa ngay trên ghế, mặc áo thâm
chùng đạp chiếc xe cót két chạy vào, chiếc ô buộc trên ống xe; ông giơ tay vẫy
chào đám người đợi nói lớn: Còn sớm, còn sớm. Người ông thấp bé, dáng đi thủng
thỉnh, khi ông mở khóa cửa bị đám người đứng sau che lấp. Cảnh ngồi yên, đợi
năm phút sau mới vào và trông thấy Trọng đứng trong ngách không có bàn đọc
trước tủ ô kéo cao chọn sách. Người thủ thư đang bước lên bục đặt ghế ngồi có
thể quan sát khắp phòng đọc, nhếch mép cười chào. Cảnh đến chiếc bàn trong góc
tìm chỗ ngồi khuất, tựa đầu nghỉ ngơi. Trên đầu tường những khe hở được che
kính chùi sạch để thêm ánh sáng cho phòng đọc, cành lá phượng xanh không còn
hoa. Tiếng kèn xe hơi ngoài đường bị cản lại vì những mặt kính dầy trong suốt
che quanh cửa vào phòng đọc. Cửa sổ lớn rộng trông xuống vườn sau để trống.
Tiếng dép lẹp kẹp của ông già trông nom trật tự, chốc chốc rời chiếc bàn nhỏ
bầy ngay lối vào phòng. Tiếng ô kéo rút ra, đóng vào, bước chân đi nhẹ trên
sàn, tiếng sì sào loáng thoáng, tiếng ho, sịt mũi, tiếng chân ghế bị kéo trên
gạch hoa... Trọng ngồi ở chỗ không trông thấy. Trong khi đợi mượn sách Cảnh về
chỗ nhìn mặt bàn dài lên nước đen, những ngón tay xòe đặt trên màu gỗ bóng nổi
vân. Chuyến đi này chỉ có một người Cảnh muốn được đi cùng là Thạch, chỉ có nó.
Nhưng nó đã bị đầu độc bởi những Gide, Malraux, Sartre, Koestler... bởi bọn existentialistes. Nó không thoát khỏi
được những ý niệm trừu tượng những thắc mắc siêu hình viển vông, không thoát
khỏi được giới hạn của giai cấp. Nó đi vào chiến tranh như tìm sự tự hủy; Cảnh
ân hận đã không thuyết phục nổi Thạch, không đủ can đảm đối đầu quyết liệt với
Thạch; ở nó ngầm chứa một sức mạnh mù tối khiến chính mình bối rối hoang mang
khi đối diện. Không như Trọng, Trọng vững vàng quá nên dễ nhận thấy sự chia
lìa. Những cơn giao động mãnh liệt của nó như muốn lôi cuốn cả mình vào trong.
Hồi Cảnh truyền cho Thạch hai quyển gối đầu giường của mình là Principes fondamentaux de la philosophie
và Principes élémentaires de l’économie
politique, Thạch bỏ cả gần năm học không để ý đến thi cử để nghiền ngẫm
Marx; Cảnh hỏi: Cậu có hiểu nổi không? Thạch: Phải cố banh óc ra mà hiểu, người
thủ thư lúc đầu rất dè dặt khi cho mượn sách, lưu ý Thạch nên cẩn thận, và
Thạch nói: Xem chơi thôi mà, xem cho biết. Cả buổi sáng, Cảnh không giáp mặt
Trọng. Thư viện vơi dần, buổi trưa nặng nặng đến êm ả, màn ánh sáng cũng không
thấy chuyển đổi. Khi Cảnh gấp tập La
Révolution française của Soboul lại, ngoái cổ nhìn lên chiếc đồng hồ treo,
đã một giờ trưa. Cả phòng đọc sách không còn một người, trừ ông già ngồi ở bàn
gà gật trước tờ báo hằng ngày trải cả hai trang. Cảnh xuống sân, vào nhà chứa
xe, ăn trưa. Người chồng úp chiếc mũ vải trên mặt, nằm dài trên ghế, người vợ
tựa lưng vào tường lim dim mắt. Cảnh gõ gõ vào mặt kính đánh thức. Một cái bánh
tây, cốc cà-phê sữa, xong bữa trưa. Vào khoảng ba giờ An đến, nét mặt hốc hác,
mắt lờ đờ thất thần thiếu ngủ, ngồi trước mặt Cảnh, khoanh hai tay trên mặt
bàn, nhìn thẳng mà như không thấy Cảnh. Một lúc An hỏi: Thấy Đồng không? Cảnh
lắc đầu; Hay là nó ốm nặng? Chết? An vừa nói vừa cười nụ cười ngơ ngẩn. Cảnh
nhìn chăm chú, xét đoán tâm trạng của An, rồi lại cúi xuống trang sách và An bỏ
đi lúc nào Cảnh không hay. Nhiệt độ buổi chiều rớt một cách đột ngột theo với
màu ánh sáng phủ lên từ lúc nào trên da mặt cảm giác tê lạnh. Đèn trong phòng
bật sớm, các lò sưởi dưới các chân cột lớn được đốt lên, những bóng đèn trắng
đục lớn treo bằng giây xích tỏa một thứ ánh sáng dịu nản. Cảnh rời thư viện về
quán cơm trọ. Đứa con gái nhà trọ vừa dọn bàn vừa than thở với mẹ về chợ búa
đắt đỏ. Bữa cơm dọn lên trên hai ba cái đĩa nhỏ một món kho, một món xào, đĩa
dưa và một bát chiết yêu canh váng mỡ. Tráng miệng một quả chuối quắt, vỏ thâm
ướt nước. Ngoài đường người qua lại hấp tấp trong một cơn mưa rắc bụi. Từ cái
ra-đi-ô đặt trên xích-đông gần quầy phát ra tiếng hát ân tình nỉ non. Trong một
thoáng, Cảnh rung động vì giọng hờn oán kể lể của nữ ca sĩ. Phút rung động thật
ngắn đào một hố trống, trong cảm xúc, Cảnh nghe giận cái tiếng hát đìu hiu vô
tư như một luồng gió tan lẫn trên các chòm cây. Không thể còn sự ngây thơ,
không thể còn những mơ mộng vô tội, người ta chỉ có thể mơ mộng bằng kiếp sống,
bằng hành động. Chỉ còn có thể một giấc mộng... giấc mộng của những
Robespierre, Saint-Jus, Marat...
Ngoài đường
mưa chỉ vừa đủ bám lên áo dạ, Cảnh thầm
mong Trọng không trở về nhà và cũng mong Trinh không đến. Cảnh không về thẳng,
đi vòng đến thăm Hương. Hương đang ngồi đọc truyện Tàu cho bà mẹ nghe, bà ôm
cơi trầu trong lòng mắt mơ màng. Hương nói: Anh có thể đi sớm được... Vừa có
người vào. Ngày kia anh đến tôi, tôi sẽ đưa anh đi gặp. Bà cụ già nhai trầu bỏm
bẻm, hấp him ngắm Cảnh. Người anh lớn của Hương, công chức sở Thông tin, ở
trong buồng đi ra, bắt tay Cảnh và cũng nói: Nếu tôi không có gia đình, không
bận gánh nặng... tôi cũng đã ở lại ngoài kia rồi. Câu chuyện xoay quanh các
nhân vật đang cầm quyền, thành tích, dĩ vãng, những âm mưu bẩn thỉu. Áp-phe
sợi, gạo, muối, áp-phe thiết lập thị xã Đồng-quan. Hơn tám giờ Cảnh mới rời
khỏi nhà Hương. Trinh đứng đợi ngoài ngõ, dưới gốc cột đèn, áo nhung màu huyết
dụ. Cảnh đi tới và hỏi:
— Cô không
đi xem kịch?
— Em đợi
anh.
— Cô có gặp
ai trên buồng tôi không?
— Không.
Trọng không
về, có lẽ anh có giờ tại Văn-khoa. Cảnh rút khăn tay lau da mặt nhờn nhớp bụi
nước.
— Cô lên
buồng chơi không?
— Em hẹn con
bạn đợi ở nhà Hát lớn.
Trinh chờ
Cảnh nói, ôm chiếc sắc tay vào ngực như muốn che gió, vén cổ tay xem đồng hồ.
— Cũng gần
đến giờ rồi, tôi đưa cô đi.
Trên vỉa hè,
men theo bờ tường Hỏa-lò, đèn sáng không bóng cây che. Tiếng guốc cao gót kêu
nhịp. Trinh bọc hai tay trong mép vạt áo trước giữ thẳng. Đường Hai bà Trưng
rộng, ướt bóng chạy hút theo ánh điện và cây vào trong tối.
— Em thích
đi bộ dưới trời mưa, đi mãi cũng được. Nhiều tối học bài, trời mưa em chỉ muốn
được khoác áo mưa ra phố mà không được... Anh có thích như thế không? Có khi
các anh là con trai, các anh được tự do nên các anh không hiểu được tâm hồn bọn
con gái chúng em…
— Mưa tôi
chỉ muốn ngồi nhà. Ra ngoài rét lắm...
Cảnh cất
tiếng cười nhẹ nhõm, tiếng cười như của một người khác. Muốn nhớ một vài câu
hát, một câu thơ... mà không thuộc nguyên vẹn một câu nào. Lối mòn thơm mãi...
Những chiếc xích-lô vượt qua mặt nhẹ nhàng êm ái. Trinh đi ngang qua đường sang
phía vỉa hè ít ánh sáng. Lối gạch lát cỏ len lấn hai bên.
— Tạnh mất
mưa rồi. Lần thứ nhất em được đi chơi ở phố vắng này... một mình. Anh cứ nghĩ
xem tối đến là bọn con gái đóng chặt cửa bị giam ru rú trong nhà. Đêm tối thành
ra là của riêng của con trai. Hễ đứa nào thích đi lang thang buổi tối là các cụ
cho là hư rồi. Một mình... ngoài phố vắng là người ta nghĩ không tốt. Có công
việc gì phải đi qua thì vội vàng hốt hoảng đâu còn đầu óc mà hưởng thú vị. Phải
không anh? Tại sao con gái không có thể đi dạo chơi ban đêm như con trai những
lúc buồn bực. Đêm trong thành phố quyến rũ lắm chứ. Em chỉ muốn được đi không
mục đích rồi về nhà ngủ một giấc chắc ngon.
Trời lộ ra
trong những khoảng trống của vòm cây, sáng vàng từng nhịp ánh pha rọi ngang.
— Không thơ
mộng như cô tưởng đâu. Cô quên rằng cô đang ở trong một thành phố chiến tranh,
thành phố bị chiếm đóng... Bất cứ lúc nào...
Cảnh bỏ dở
câu nói, không nên khuấy phá phút mơ mộng của Trinh, cũng chẳng lợi ích gì.
Những thiếu nữ tiểu tư sản thành thị không nhận thức nổi những quy luật xã hội
như số mệnh khốc liệt của mình. Để cho Trinh được đi trong màn đêm huyền ảo của
nàng và Trinh sẽ tới gặp... Bước của Trinh chậm, lúc nào Cảnh cũng đi trước một
vài viên gạch và thỉnh thoảng đứng lại đợi.
— Cô có đến
kịp không? Bạn cô sẽ sốt ruột. Hay đi xe, cô đi xe đi... tôi về.
— Không. Mặc
cho nó đợi. Không thì nó vào xem một mình... Chẳng mấy khi em được đi trong phố
đêm. Anh bảo thành phố chiến tranh, bị chiếm đóng... Mình tránh đi. Rẽ đi anh.
Đừng đi qua chỗ kia... Vẫn phải còn những phố riêng của mình chứ. Đêm vẫn còn
những lúc không có tiếng súng.
Tránh cái
quán rượu sáng trơ giữa đại lộ vắng, nghêu ngao tiếng hát của anh lính Tây say ma petite folie, ma petite folie... Trinh
đẩy khuỷu tay Cảnh rẽ vào con phố nhỏ ngang, hai bên biệt thự rào cây kín.
— Năm nay cô
Trinh bao nhiêu tuổi nhỉ?
— Mười chín
tuổi tây, hai mươi tuổi ta.
— Học xong
cô định làm gì?
— Em không
biết.
Vỉa hè hẹp
chỉ vừa đủ mình Trinh đi, Cảnh bước dưới đường. Trình bứt những lá cây bên các
rào ném xuống.
— Mai kia
yên, em chỉ ước được sống ở nhà quê. Em không quên được kỷ niệm mấy năm tản cư.
Ở nhà quê, làm vườn, đọc sách, nuôi con...
Trinh thốt
cười nhí nhảnh, tưởng như giấc mộng ấy trong một ngày gần đã tới. Không biết
rằng xã hội này còn nhiều vấn đề phải giải quyết còn phải chịu xáo trộn nhiều
năm... Chiến tranh còn dài lắm và cái trang trại trong mộng tưởng của Trinh
cũng là một mục tiêu bị tấn công.
— Tôi sống
mãi ở nhà quê, chán lắm. Như thế cô cần phải lấy chồng thi sĩ mới được...
— Chồng làm
ruộng không được hay sao anh?
— Lãng
mạn... Cô không biết rồi xã hội mình phải cách mạng. Hiện thời người ta đang
làm...
— Cách
mạng... em có bảo không cách mạng đâu. Thế cứ làm cách mạng là phải diệt trừ mơ
mộng, là không...
— Cô còn
ngây thơ lắm.
Trinh nín
lặng như bị đè nén, ấm ức, dừng lại. Con phố nhỏ mở ra một đại lộ, bên kia
đường là chiếc cổng sắt của một hãng xưởng lớn. Không có chỗ cho Trinh, không
thể bận tâm, những người như Trinh phải bị hy sinh cùng với những giấc mộng
tiểu tư sản. Trinh nhìn theo chiếc ô-tô chạy ngang, lặng lẽ xuống đường rẽ về
bên trái và lại thủ hai tay giữa vạt áo trước. Cảnh không biết lúc này là mấy
giờ, lối đi dẫn về khu Đại-học.
— Trong lớp
em, dạo này chúng nó hoạt động chính trị hăng lắm... Truyền đơn rải lung tung
trong giờ học. Không còn biết đâu mà đọc nữa. Mấy con bạn thân của em cũng chê
em là ngây thơ, mơ mộng, lãng mạn, lạc hậu, không chịu tham gia phong trào...
Em thì em nghĩ có mình hay không cũng chẳng thiệt hại gì cho ai. Nếu mình lấy
đấy làm lý tưởng, lẽ sống của đời mình thì khác... Còn em, em không có đầu óc
cách mạng, em chỉ nghĩ được những điều thường thường...
Đế guốc của
Trinh dẫm lên trên một đoạn lá khô trải lót vỉa hè nghe lạo sạo tiếng gẫy dập
của cánh lá. Trinh sẽ lấy một người chồng và sẽ trở thành bất cứ một người đàn
bà nào theo ý muốn khuôn nặn của chồng. Trinh sẽ sung sướng hay khổ sở? Hạnh
phúc cũng như tự do chỉ là huyễn hoặc trong một thế giới đang băng hoại. Cảnh
nhìn chiếc bóng in trên hè chuyển động theo bước đi và theo ánh sáng của những
ngọn điện cách quãng đều đặn.
— Bao giờ
thì anh đi? Ngày nhất định ấy...
— Tôi chưa
chắc chắn.
— Anh ra hậu
phương có phải không?
— Làm sao cô
biết?
Trinh không
đáp, đưa một tay lên gỡ tóc xòa trên trán. Cảnh ngoảnh mặt chỗ khác, tránh cái
nhìn của Trinh. Gió thổi là, cuốn một góc vạt áo nặng. Bên góc phố tối, một
gánh bánh tây và cà-phê đỗ không có khách nhưng vẫn đang quạt bếp. Cảnh đứng
lại mua thuốc lá và hỏi:
— Cô uống
cà-phê không? Có dám không?
Trinh đứng
vịn vào đầu chiếc tủ kính, ngần ngừ:
— Đằng nào
đêm nay em cũng không ngủ được...
Cà-phê đắng
làm Trinh nhăn cả mũi. Người đàn ông bán hàng đội mũ dạ sụp tò mò quan sát
Trinh, áo của Trinh mới và sang quá so với bộ quần áo của mình. Cảnh nghĩ mình
bắt đầu nghiện cà-phê thuốc lá, những thú tiểu tư sản khó dứt, bỏ đi là vừa.
Cái xã hội này sẽ chiều chuộng mình, tạo nên những thói quen để giam hãm. Nhà
thương Đồn Thủy ở trong phố đầy cây tối hơn, chiếc sân cỏ phẳng chạy dài mở
rộng dần hết phố hàng Chuối. Khuya lắm rồi, khói thuốc bị gió thổi hết hương
vị.
— Làm sao cô
biết tôi ra hậu phương?
— Em đoán
phỏng thế. Các anh nếu không đi lính thì chỉ có thể ra hậu phương...
— Cô nhầm. Có thể trốn ở trong này cũng được...
Những tòa
nhà của trường Đại học sừng sững trong bóng đen. Một đôi cặp tình nhân bình dân
lẩn lút đứng dựa các gốc cây. Cảnh ngượng hộ Trinh nhưng hình như Trinh không
chú ý đến.
— Anh đi anh
có buồn không?
— Có gì mà
buồn. Tôi không phải là dân Hà-nội mà...
— Anh không
nhớ đến một cô nào... Người ta đợi anh và có thể đêm đêm người ta khóc nhớ…
— Cô nào?
Không ai yêu tôi và tôi cũng chẳng yêu ai hết.
Cảnh cười,
tiếng cười nhẹ mỏng rớt mau, dừng chân châm nói điều thuốc mời. Bắt đầu thấy
chóng mặt nôn nao như những đêm đi nhiều, nói nhiều, hút nhiều thuốc lá với
Thạch và Đồng, giữa những cơn gió lạnh.
— Anh hút
nhiều thuốc lá quá.
— Mới chỉ có
ba điếu.
— Nhưng anh
hút liền không nghỉ.
— Không hề
gì. Ra ngoài kia là hết hút thuốc.
— Anh đi
chắc còn lâu mới về Hà-nội.
— Tùy tình
hình. Có thể nhanh, có thể chậm, nhưng chắc chắn là thế nào cũng phải về
Hà-nội.
Lúc ấy Thạch
ở đâu? Đồng ở đâu? An ở đâu? Trinh ở đâu? Chắc chắn là về. Có phải bỏ đi vì
biết chắc chắn được trở về? Còn Thạch?
— Vở kịch
dài. Sợ đến giới nghiêm mới tan.
— Em không
muốn xem nữa...
— Cô nên xem
cho biết... Vở kịch hay... Còn buổi nào nữa không? Còn tôi cũng phải đi xem.
Trên thềm nhà Hát lớn vắng lặng, đèn sáng, không bóng người. Cảnh
đưa Trinh đi giữa khoảng công trường rộng, tiến lên từng bực chậm chạp.
— Hay thôi
em về... Chắc nó vào xem rồi.
— Cô cứ vào
thử xem. Nhỡ cô ấy đợi thì sao.
— Chắc nó
chẳng đợi đâu.
Cảnh bước
vào trong vùng sáng rỡ của hành lang ngoài nhà hát. Khuôn mặt Trinh lộ lên như
một con trăng mọc, con trăng đột ngột mọc lúc nửa đêm giữa cảnh u tịch, ngửa
nhìn; cặp mắt mở lớn được ủ trong những ý nghĩ ngủ chết. Trinh, Trinh, đây
này... bắt tao đợi lâu quá. Mới xong màn tự mộ thôi. Cảnh quay lưng đi mau
xuống các bực thềm, rẽ ra bờ sông và ngồi nghỉ trên bảng đá công viên trước
viện bảo tàng. Khi Cảnh trở về đến nhà, nghe vắng lặng tứ bề, người thiếu nữ
cuống trí không lên cơn nữa sao. Trọng chưa về, hay không về. Không đóng cửa
buồng, không bật điện, không cởi quần áo, Cảnh nằm dài trên phản nhìn bóng tối.
An ghé nhà;
Người tớ gái mở cổng báo tin: Thưa cậu, bà đã về sáng nay; Bảo cô Nga, tối nay
tôi ăn cơm nhà và nhảy xe điện xuống thẳng Đồng. Đứng bên cạnh người “vát-man”
lầm lì, mắt hướng thẳng phía trước, chân đạp chuông liên hồi mỗi khúc quanh,
bánh sắt nghiến rít, lá khô cuốn chạy sào xạc theo sức hút của tầu. An nhỡ một
trạm đỗ và đến trạm cuối đường Thụy-khê phải đi bộ ngược lại, giữa một phố buôn
bán thưa thớt như một thị trấn vắng. Cổng ngoài nhà Đồng mở. Đồng có vẻ yếu mệt
trở lại, đang ngồi xệp trên hè nhìn hai con chó nô rỡn dưới sân. Tóc không chải
rối loạn, mắt trương lồi, ướt, nhiều vân máu, da xanh mét, môi tái thiếu máu;
nhưng nụ cười vẫn vỗ về ấm áp. Đồng hỏi: Đi đâu đấy? Sao không gặp ở trường? An
cũng ngồi xệp xuống bên cạnh: Tưởng cậu ốm, tôi vừa gặp thằng Cảnh ngoài thư
viện. Một con chó bỏ chạy lại ngửi chân An và giật lùi, trong khi con khác vẫn
lăn lộn theo cắn cẳng nó. Đồng quát: Chỗ khác, chúng mày... Sao không rủ cả
Cảnh xuống chơi. Mới đi được mấy hôm đã thấy mệt, không thấy hứng thú học. Đồng
dẫn An ra vườn, đứng dưới một gốc nhân, hỏi: Thế nào? Có gì thay đổi? Có, có.
An ngước nhìn khói bốc khét bên kia bờ tường, bay tản mạn trong các đám lá,
người ta đốt những lá khô rụng trong vườn. Đồng nói: Hả, ông cụ lên rồi hả? An
mỉm cười chua cay, ông có quyền làm như vậy, nhưng tôi phải gánh lấy trách
nhiệm về hành động của ông... Chắc chắn là tôi phải từ chối làm đồng lõa ông.
Đồng: Tôi nghĩ mình chẳng làm nên cái gì thì tự dằn vặt mình làm gì cho mệt.
Đến đâu hay đấy. Cậu cứ nhân cơ hội này bảo ông cụ cho sang Tây học... lúc nào
tình hình sáng sủa thì về cũng không muộn. Ở đây mãi cũng thế thôi. Hắn nói
thực hay mỉa? Chúng nó ở lại chết dần mòn, vô nghĩa, còn mình... Mình cũng sẽ
phải như chúng nó, nghĩa là chết dần mòn, không thể thoát thân lấy mình. An
hỏi: “Thành thực cậu nghĩ như thế... cũng như thằng Cảnh. Tôi không thể tự giải
thoát khỏi những mối liên hệ gia đình, giai cấp?” Đồng tụt một bàn chân ra khỏi
guốc gác lên thân cây: “Không... tôi không đặt vấn đề theo lối ấy. Tôi cho
không nên... không nên đặt vấn đề... Tại sao? Tại sao hả? Tôi nghĩ là các vấn
đề đều được đặt và giải quyết bằng các ý niệm... ý niệm trừu tượng…” Đồng thun
mũi tự chế riễu, ngắt ngang lời, sỏ chân vào guốc, phủi những con kiến đen bò
nhanh trên tay áo. An ngắm kỹ Đồng hơn, đôi lông mày rậm sếch, hàm râu xanh lởm
chởm ôm khuôn mặt vuông, có thể sẽ chết trước khi trở thành một thi sĩ. Những ý
nghĩ, những con vi trùng, cuộc chiến tranh tàn phá, cái xã hội cạn nguồn sinh
lực... bóp nghẹt dần nó, tất cả, cả một thế hệ...
— Chính
chúng ta có thể gọi là một génération
perdue. Phải không Đồng? Không tin tưởng, lạc lõng... Các bậc đàn anh, cha
chú ở ngoài kia cũng như trong này đều chống lại chúng ta... Hay chúng ta chống
lại họ cũng vậy. Thế hệ trước chúng ta họ có lịch sử và chúng ta thì không. Chỉ
còn một thái độ hư vô. Nous sommes
perdus...
Đồng lẩm bẩm
nhắc lại câu của An... perdus và cười
khí khí: Có thuốc không? Đồng hít hơi thuốc, vẻ say sưa ngon lành, đi khỏi gốc
cây nhãn tiến tới phía bụi chuối và đu đủ sát chân tường, đứng tiểu tiện. Đồng
hỏi: “Xuống bằng tàu điện hả?” An đuổi theo.
— … Như
thằng Thạch đấy? Nó phiêu lưu... Tôi nhớ một lần nó có nói: nó đi lính là đánh
giặc mướn, đánh giặc mướn ngay tại xứ sở của mình. Cũng như bọn Lê-dương vậy...
Nó nói lâu rồi... Mình rồi có làm gì cũng đến như thế. Tiêu tan dưng không
chẳng ra cái gì cả.
Đồng đi trở
lại, ném mẩu thuốc xuống đất, lấy guốc đi: “Thôi cậu nói mãi cái chuyện ấy chán
ghê. Cứ luẩn quẩn, loanh quanh...” An quên hẳn ý định thúc dục mình xuống gặp
Đồng, ngừng nhìn trời đang đùn những đám mây khói. Phải, thôi đi, im lặng đi,
nhắm mắt vào lao mình tới... Mẹ Đồng từ bên mảnh vườn trồng rau, tay xách những
nắm cỏ mới nhổ đi sang; bà hỏi: Cậu nào đấy? và An đáp: Thưa con. Bà cười bảo:
Cậu ở lại chơi ăn cơm với em nó. An từ chối, Đồng nháy mắt và dẫn An đi trở vào
sân gạch, thủng thỉnh ra ngõ. Đồng nói: “Cậu viết đi?” Hỏi viết cái gì mới
được. Viết không phải là một lối quên, viết là phải chạm trán rõ rệt hơn với
cái thân phận của mình, viết để làm gì? Đồng bảo: “Viết chuyện tình chẳng hạn;
tôi giúp cậu một đề tài: một thanh niên như bọn mình chẳng hạn, ban ngày hắn
bận tâm thảo luận, lo lắng tìm kiếm lịch sử và đêm đến hắn giam mình trong
phòng kín, trần truồng viết thư tình, toàn là thư tình không có đối tượng...”
Đồng cười dài tiếp: “Morbide hả, cậu
thấy thế nào?” An đáp: “Nó vẫn chỉ thấy nó, thấy nó một cách mù tối hơn và chắc
chắn là nó thủ dâm”. Đồng vỗ mạnh vào vai An: Bon écrivain. Ngoài đường cái hai anh lính Tây đen chân dài lòng
cong lưng cưỡi hai chiếc xe đạp lảo đảo đuổi nhau, la hét ầm ĩ. Đồng đứng lại
bên đường sắt: “Cậu thử viết xem”. Chuyến tàu điện lên phố, chạy ngang và đỗ
lại cách chỗ đứng vài chục thước. Không định trước An bắt tay Đồng bảo: Về đây
và chạy đuổi theo tàu sửa soạn chuyển bánh. Nhà vẫn như chưa có ai về. Đi ngang
buồng Nga, cửa mở nhưng không thấy người. An vào buồng riêng đóng chặt cửa,
thay quần áo, lên giường nằm. Đầu óc trống rỗng, giấc ngủ vùi kín mít, thân xác
bở rã như đất khô nắng. Lúc An tỉnh lại, mất phương hướng, không hiểu đang nằm
chỗ nào. Buồng tối đen, cửa số không mở, An mò mẫm trong bóng tối, mở cửa kính
và cửa chớp. Mưa bụi mơ hồ trên các lá cây trong vườn, ban-công nhà đối diện
sáng đèn, buồng bên cạnh nghe tiếng dép của Nga. Nga đến cửa sổ buồng, ngó đầu
nhìn sang hỏi: “Anh về bao giờ đấy? Em tưởng anh chưa về?” Rửa mặt mũi xong vào
bàn ăn, An chỉ gặp Nga. Bà cụ đi với bạn, giải quyết mấy công việc cần, không
ăn cơm nhà; sẽ dọn cả gia đình vào Sài-gòn trong vòng tháng này, Nga nói vậy.
An nói: Thế hả? rồi cắm cúi và cơm. Trong ra-đi-ô, một nữ ca sĩ đang nức nở rên
rỉ, Nga buông bát định đứng dậy tắt máy. An nói: “Để nghe mày”. Nga cau mày: “Em
không hiểu tại sao anh lại nghe được loại nhạc lải nhải này”. An bảo: “Bình dân
mà... Tao mơ mộng một cách bình dân thế thôi”. Khi ăn tráng miệng, Nga hỏi: “Vào
Sài-gòn, anh nghĩ thế nào?” An ngồi thoải mái trong ghế dựa, nhấm nháp tách
cà-phê đậm hỏi lại: “Cô nói trước nghe thử xem”. Nga lộ vẻ đăm chiêu, ngừng tay
xỉa răng: “Ха Hà-nội buồn; nghe nói Sài-gòn ổn và hỗn tạp lắm”. Có lẽ nó bỏ lại
Hà-nội một anh chàng thất tình nào? Nó yêu ai? Có thể là một đứa mình vẫn gặp ở
trường Đại-học mà không biết, một anh bác sĩ tương lai, nối nghiệp bố vợ, một
anh bộ trưởng tương lai... Và nó trở thành một bà mẹ thứ hai khuôn đúc. “Chắc
anh thích vào Sài-gòn đổi không khí?” An lắc đầu hỏi lại: Nhất định rồi. Nga
đáp: “Mợ nói thu xếp xong việc có thể đi sớm hơn; em nghe nói có thể anh vào
trong ấy trước... cậu gọi”. Lúc này là lúc quyết định, không thì sẽ không bao
giờ, tôi phải quyết định. Phải tách rời khỏi cái quá khứ đã tạo thành mình. Tôi
sống một cuộc đời khác do tôi lựa chọn và tạo lập. Tôi sẽ trở nên? An trở lên
buồng, dặn Nga: “Tao mệt đi ngủ sớm đây…” Nga nhìn bằng con mắt khác lạ như
muốn soi thấu tâm trạng.
An mở tung
các cánh cửa tủ quần áo và đựng sách để nguyên, đến ngồi trước bàn viết, suy
nghĩ không biết nên mang theo thức gì. Mọi thứ đều như cần thiết, quen thuộc
không thể thiếu, quá khứ thật là nặng. An rút trong ngăn bàn tập sổ ghi chép
những ý nghĩ bừa bãi, những thắc mắc loanh quanh, những nhận xét đột ngột không
ngày tháng rõ rệt đã bỏ quên hẳn lâu ngày không thể hình dung lại được tâm
trạng của thời khắc đã chôn vùi. Tiếng kèn xe hơi gọi ngoài cổng. An vội tắt
đèn, ngồi trong bóng tối lắng nghe tiếng chân chạy vội trên lối sỏi, cánh cửa
sắt được kéo mạnh, giọng nói thanh tao đài các của mẹ hỏi chuyện người nhà.
Giọng nói ấy vang âm dưới phòng khách lẫn với giọng của Nga ấm và trầm hơn một
cấp, tên An được nhắc đến. Rồi một ngày sẽ tới, cái tên ấy sẽ thưa được nhắc
đến ở đây... Trong ánh sáng mập mờ của ngọn điện ngoài hè phố xuyên qua các lùm
cây trong vườn, An xếp một vài món đồ cần thiết nhất, ba bộ quần áo vào một sắc
tay du lịch. Không đem theo một quyển sách nào, không phải là ngày nghỉ về quê
hay ra biển tắm... Những quyển sách như môi giới của thế giới khác, trở nên vô
dụng, chính tôi tôi đi đến những thế giới ấy và có thể tôi sẽ tạo nên những
quyển sách của tôi. An thức rất khuya, nghe im lặng của phố phường lùa lên theo
những cơn gió, mệt bã người, nỗi nhọc mệt cắn rứt lại như môi nhớ nhung kêu gọi
một thân thể khác ôm ấp vỗ về mơi yêu. An tưởng đến Phúc, những cử động nghèo
nàn trần trụi không thoát khỏi thói quen khêu gợi dục tình và sự kinh tởm. Qua
cửa số An nhìn thành phố câm nín trong giờ giới nghiêm, hiện lên trong ánh đèn
vàng những bóng cây lớn sù sì, mái nhà lô xô, mặt đường lá lăn chạy nghe tiếng
ẩm ì của nhà máy đèn vọng tới. An chợt vểnh tai chú ý tới tiếng sầm sì trong
buồng Nga, đèn tắt tối om, tưởng như tiếng người trò chuyện. Một lát nghe rõ
hơn chỉ là giọng của một người nho nhỏ đều đặn như đang cầu kinh. An ngạc
nhiên, đứng lặng trong tối, tĩnh trí, đúng là Nga đang đọc kinh; mi mắt nặng
chĩu, tay chân không muốn cất nhắc nhưng thân trí tưởng như tỉnh táo lắm, Nga
đang đọc kinh, nó yêu một đứa theo đạo, nó buồn, sợ... An ngủ đứng một chỗ,
không biết là bao lâu, và khi giật mình thì phòng bên cũng đã im tiếng. An chập
choạng nửa thức nửa ngủ vào giường, vùi mình vào trong chăn, tự nhủ: Mai, mai
đi. Cần một món tiền. An dậy muộn và khi đi qua phòng khách, chỉ gặp Nga đang
ngồi tiếp Hán, thư ký riêng của ông bố. Hán đã bỏ đôi dép cao su ngày mới hồi
cư, bộ quần áo tây vàng xin được của lính ngày ra khỏi camp Máy Chai Hải phòng,
được thay bằng bộ complet màu sáng, đầu tóc ngắn bờm xờm đã cắt tỉa thành một
mái chải gọn như cái chứng tích cuối cùng cố ý lưu lại cho mọi người thấy hắn
là một cựu cán bộ kháng chiến về thành. Không hiểu ai giới thiệu Hán với ông
bố, ít lâu sau khi nghe hắn nói chuyện tại nhà Hát lớn với tư cách một cán bộ
kháng chiến phản tỉnh trở về, An gặp hắn đến nhà bàn luận với ông bố và được
coi như người thân trong gia đình. Hán gọi ông bố và bà mẹ An bằng anh chị và
được gọi lại bằng chú. Hán bắt tay An siết mạnh mời: “Anh ngồi chơi”, giọng
Nghệ-tĩnh nặng nề chối tai, Đồng đã phê bình: Nghe cái giọng xứ Nghệ cứ lạnh cả
xương sống, chỉ thấy những sắt với máu. An ngồi xuống nhìn Nga, nghĩ tới tiếng
đọc kinh nửa đêm và nghi hoặc không rõ mình có thể là nằm mê không. Hán nói ông
cụ dặn hắn ra mời An vào Sài-gòn như một người cộng tác. Nga xen lời: “Cậu cũng
gửi tiền bảo anh đi kiếm mua hộ một ít sách cần dùng mang theo vào”, trao cho
An một cái phong bì lớn dán kín, Hán nói tiếp: “Trong ấy có cả tiền vé máy bay
của riêng anh. Ông cụ nhờ tôi nói cẩn thận với anh là không phải vì bố con mà
nhờ anh. Ông cụ hiểu giá trị của anh. Dù có bất đồng ý kiến chăng nữa, ông cụ
vẫn tin là anh sẽ làm được việc. Đây là dịp để anh làm việc, ít nhất cũng có
hiểu biết thực tế. Ông cụ định mời anh làm Tham chánh văn phòng...” An mân mê
chiếc phong bì trong tay, hỏi Nga: Mợ đâu? Hán thuyết về sự tiêu cực trùm chăn
của các trí thức trong thành không dám dứt khoát lập trường tư tưởng. “Tôi cũng
thấy như anh và nhiều lần tôi cũng đã bàn với ông cụ. Đồng ý là thối nát, là
không có quyền chủ động nhưng nếu cứ thụ động thì biết đến đời nào mình thay
đổi được tình thế. Chỉ còn có nước đợi Cộng-sản về và đi công trường hết cả.
Anh thấy không? Mình phải lăn vào, làm cái gì để thức tỉnh người khác chứ. Tôi
đã sống với Cộng-sản, tôi không thể khoanh tay mà nhìn chúng nuốt nốt cái vùng
chúng ta có thể cướp làm của chúng ta”. An mỉm cười làm bộ chăm chú lắng nghe,
thái độ nhiệt thành hăng say của Hán chỉ làm mình thêm chán nản. Hán tả Sài-gòn
một cách mâu thuẫn, lúc hắn thích thú vẻ nhộn nhịp tưng bừng sinh khí cởi mở
không gò bó như Hà-nội lúc hắn bất mãn hằn học về cái xã hội trụy lạc ngoảnh
mặt với chiến tranh và lý tưởng. Nga xem chừng cũng sốt ruột nhấp nhổm, chắc nó
có hẹn. An ậm ừ cho qua câu chuyện: “Tôi đâu đã già để chùm trăn, ông cụ không
muốn cho tôi đi Pháp nữa à?” Hán đáp: “Ông cụ nghĩ rằng anh không thích đi, anh
muốn làm việc... Để anh làm ít lâu rồi trở về học cũng không muộn”. An tự hỏi:
cái gì đã cố kết Hán và ông cụ? Lý tưởng chăng? Hán là cái mẫu người của một
chế độ, orgueilleux et prétentieux,
hắn muốn biến mọi người trở nên giống như hắn để chống lại cái chế độ đã tác
thành hắn. An đứng lên: “Ngồi chờ bà cụ tôi hả? Tôi xin lỗi đi chút việc riêng”.
Hán đi theo ra tới ngoài hành lang phòng khách: “Đây là cơ hội tốt cho chúng
ta…” Chúng ta, tôi ở trong cái chúng ta ấy ư? Không đời nào, An bỏ đi thẳng.
Bước xuống xích-lô, An tần ngần trước cổng tò vò dẫn vào khoảng sân rộng yên
tĩnh một cách đáng ngại. Từ giờ phút này, tôi phải làm chủ, chủ hết thảy: đời
tôi, đời Phúc và đứa con của Phúc. Phúc đang ngồi chơi với con ngoài bàn, da
mặt hồng hào mạnh khỏe, nụ cười tự nhiên như đã quên hết quá khứ. “Lân lại vừa
đến đây, em không tiếp. Em nhất định đuổi, cãi nhau với bà cụ...” An đóng cửa
buồng, ngồi xuống ghế: “Thế hả? Tốt lắm”. Rồi An ngồi im, nhìn bức ảnh Đức Mẹ
đặt trên đầu tủ nhỏ. Đứa con quờ quạng nhoài sang tay ghế An ngồi, Phúc đẩy nó
sang. An bồng lấy, vừa khó chịu vừa buồn cười, cúi xuống nhìn thằng nhỏ. Không
có một mối liên lạc nào, trừ mối tự mình ràng buộc lấy nó, lớn lên nó phải
nhận. Tội nghiệp. Nét mặt Phúc hân hoan sung sướng rõ ràng, An mỉm cười. An
trao trả con cho Phúc: “Em phải đi tìm nhà khác... Bà cụ có thể ở lại đây. Bà
ấy có thể sống một mình không cần đến em”. Phúc cúi đầu suy nghĩ. Em, em cũng
phải lựa chọn và hy sinh như anh vậy. Biết không? Chỉ có như thế, mới có thể...
“Anh muốn như thế. Em phải dứt khoát...” Phúc thở dài, nàng ôm sát đứa con vào
trong ngực. “Còn con?” “Anh là cha của nó”.
No comments:
Post a Comment