Trời trên ô
cửa kính xám ngắt như màu mái tôn. Mùng một Tết. Năm mới rồi. Người nằm bên cạnh
vẫn ngủ mê, rớt rã lòng thòng, thở phì phò mặt tái mét. Hắn còn phải ngủ đến
trưa mới tỉnh nổi. Liêm bước xuống giường đi về phía buồng tắm, dừng lại giữa
phòng. Dưới sàn gạch hoa, vũng mửa hồi đêm chưa khô hết lầy nhầy, thoảng bốc mùi hôi chua. Không nghe một tiếng động
ngoài đường cũng như ngoài cửa buồng. Khuôn mặt nhăn nhúm đáng thương. Trong
phòng rửa mặt, nước nóng vốc lên mặt làm tỉnh táo, cảm giác mới mẻ bén nhậy sau
mấy ngày ê mòn. Tiếng còi xe hỏa rúc trong ga vẳng bên ngoài cửa kính.
Liêm thay
quần áo, xếp dọn va-ly xong, đến đứng cạnh giường nhìn người đang ngủ. Mắt khép
không kín hở lòng trắng. Phải đi cho kịp chuyến, không thể đợi, Liêm gọi: “Anh…”
nhưng quên mất tên. Dưới lần da cổ mốc và cáu ghét, tiếng rên khe khẽ. Liêm kéo
tấm áo da bị đè dưới chăn, hắn lăn quay người phía khác những vẫn không dậy. Liêm đặt tay lên trán nhờn ráp và yên tâm, mong là anh
chàng không tự tử. Ngoài hành lang, cầu thang, buồng tiếp khách lạnh tanh.
Khách sạn vắng lặng, lầm lì, không một hương vị, màu sắc của ngày Tết. Ngày
Tết. Có cả mười năm không biết cái Tết là gì. Và có lẽ cũng sẽ chẳng còn được
biết nữa. Nơi caisse, một thiếu phụ tươi cười chào đón. Nụ cười đầu tiên từ khi
đặt chân lên đất. Liêm trả tiền phòng một ngày, cười khì che đậy vẻ lúng túng
không quen khi nhận lời chúc mừng đầu năm của thiếu phụ. Bà ta sẽ nghĩ là mình
bất lịch sự khi mình chỉ biết cám ơn nhưng có biết đâu cái thói quen mừng tuổi
theo công thức có sẵn mình đã mất. Liêm nói: “Trên phòng vẫn còn một người ở
lại”. Thiếu phụ lộ vẻ ngạc nhiên, lật số cái dò xem. “Ông ấy có lẽ ăn Tết ở đây
và sẽ thanh toán tiền phòng sau”.
Nhà ga ở xế
cửa khách sạn, ngoài thềm không một bóng người. Liêm đi ngang qua đường, nhìn
vào trong phố thấy thấp thoáng một vài người xuất hành sớm lẫn sau các gốc cây.
Trong phòng vé cũng không người, người bán vé đứng bên lối cửa ra ke. Ông ta
thu tiền, bỏ vào trong một túi vải xám buộc giây đeo ở cổ tay, rồi tự tay bấm
vé, trỏ về phía đoàn toa không đầu máy trên con đường sắt thứ nhì. Chiếc đầu
máy đang lấy nước ở phía xa. Trong sân ga chỉ thấy những toa than. Liêm dẫm lên
những hòn đá xanh lổn nhổn, đi chéo về phía toa hành khách có bóng đàn bà đứng
ở cửa sổ chống soải tay trông ra ngoài. Trên cả toa tàu chỉ có bốn hành khách,
kể cả Liêm. Hai người đàn bà cùng từ Sài-gòn ra không thấy, có lẽ họ về Hà nội
bằng xe hơi. Toa xe thật rộng, ngoài hai băng ghế chạy dài bên thành toa, ở
giữa còn thêm hai băng dài khác ghép dựa lưng vào nhau. Những người khác cũng
đều đi một mình. Hai người đàn bà nhà quê với quang gánh và hai bồ hàng hóa.
Một thiếu nữ, Liêm đã trông thấy lúc ở dưới sân ga nhìn lên, mặc áo dạ đen,
buộc khăn trùm tóc, hành lý chỉ có một chiếc làn mây đặt ngay cạnh chỗ ngồi.
Liêm đặt hai chiếc va-ly lên ghế, rồi bỏ ra đứng ở đầu toa chỗ bực lên xuống.
Toa nổi là một toa hàng xám kín mít. Tàu rời ga, chạy qua một vài đường trong
thành phố. Nhà đóng cửa, người ta mặc quần áo mới đi bộ nhàn tản hai bên hè và
cả trên mặt lộ. Đường không có xe cộ. Liêm nghĩ đến anh chàng còn ở trong buồng
khách sạn, hắn không thể tự tử được, chỉ mai hay mốt, có khi ngay bữa nay, hắn
sẽ trở về nhà lủi thủi như con chó cúp tai... Quả là buồn cười, đêm đầu tiên,
đêm giao thừa ở chung một buồng với một anh chàng chán đời. Điểm gì? Không hiểu
sẽ còn gặp thêm những chuyện lạ gì nữa, nơi không còn phải là quê hương... Liêm
bất chợt thấy mình đang sợ hãi. Không gia đình, không thân thích, một bức thư
giới thiệu của Tường và Hà-nội. Tại sao lại trở về? Trở về cũng như lúc bỏ đi
ngày niên thiếu là phiêu lưu, phiêu lưu ở trong quê hương đã xa lạ. Dường như ở
đây đầy rẫy những chuyện ngoài trí tưởng của mình, dường như vậy...
Con tàu nặng
nề, chậm chạp trong một nhịp điệu buồn tẻ. Không còn cái cảm giác say sưa được
ôm trong gió vút của tốc độ ngày bé bỏng. Cánh đồng và chân trời xa tít như
không thay đổi. Liêm nhìn bờ cỏ dốc của mô đắp đường rầy, những viên đá và then
ngang, các móc nối và bàn sắt ủi giữa hai toa, giòng dây điện chạy song song
nhịp nhàng để thấy sự chuyển động. Trong toa hai người đàn bà nhà quê ngủ gà
gật trong góc, thiếu nữ ngồi quay nghiêng trên ghế nhìn qua cửa sổ. Dưới sân
rác rưới bừa bộn, lá chuối khô, giấy báo rách, bã mía, quết trầu... Gió lùa
trống. Màu trời giống như màu thiếc gò trong nhà anh Xuân. Căn phố cao nền đất,
cửa tiệm đồ sắt chiếm phân nửa để ở và nhà bếp; trong nhà bếp khói đen, một bộ
ván để ngủ gần trạn bát ngay lối cửa sau thông ra ngõ hẻm; Ngõ hẻm mở nhiều lối
về các ngả, một ngả dẫn xuống phố Phước Mỹ. Trước hè la liệt những bàn bầu cua,
tài xỉu quây quần người lớn cùng con nít; tiếng cãi lấy, giành giật đòi chung
tiền, tiếng kêu chóe từng chập của những chiếc bóng hơi có lắp kèn ở đầu thổi,
tiếng hối a của xẩm tài xỉu lẫn tiếng rao lộp chộp của bàn bầu cua, bên kia
đường rầy xe lửa điện, chợ Bà Chiểu chạy dài trước các mặt phố lầu trên nền
gạch trống với dãy quán cóc, nắng lên sáng rỡ trùm nắng nhà ga nơi góc đường;
một gánh hát Sơn-đông bán thuốc nổi trống chiêng tập họp người xem. Hạnh đang
làm gì? Trong xóm Đồng Ong Cộ cũng chỉ gặp những bàn bầu cua, những xòng bài
cào trên các lối đất, tiếng chuông leng keng của xe cà-rem tàu đẩy dong qua các
đám bạc, người lớn và con nít ngang hàng với nhau. Thiếu nữ quay mặt lại, bắt
gặp Liêm đứng nơi cửa toa. Cô ta nhìn thẳng, quan sát không dấu diếm. Liêm lúng
túng đi tới ngồi xuống gần chỗ đặt va-ly. Trên nét mặt thiếu nữ có ánh cười
thân thiện. Liêm mỉm cười bâng quơ đáp lại, tựa lưng để cho sự lúc lắc ru ngủ.
Không ngờ vẫn còn buồn ngủ đến thế. Tôi sẽ về đến Hà-nội và tôi sẽ đi tới đâu
nữa. Có lẽ chỉ còn thành phố ấy là quen nhất. Thằng em chắc vẫn còn ngoài kháng
chiến. Gặp lại hai anh em sợ khó nhận ra nhau. Mẹ? Bà còn sống...
Tàu đỗ im từ
lúc nào, rất lâu. Tiếng hơi phì phì, đều nhỏ. Ga nhỏ không có bóng người, biển
tên nhà ga tìm không thấy. Gian nhà gạch vắng tanh, tường bị cạo trắng loang
lở, có lẽ là những khẩu hiệu nào bị bôi xóa. Sau lưng nhà ga là cánh đồng mùa
đông, một con đường đất dẫn vào làng với một bụi tre còn mang rõ vết cháy vàng.
Chiến tranh ngoài này khốc liệt hơn. Không hiểu con tàu đỗ lại chờ đợi gì. Một
người xoát vé bước lên toa, ông ta dở mũ và ngồi xuống ghế giữa toa hỏi chuyện
hành khách. Trong toa thêm một chị bán bánh dầy bánh giò, cả bốn người đều là
khách quen. Ông ta đưa mắt nhìn Liêm như một kẻ lạ mặt đáng ngờ, nhưng không
chú ý tới lắm. Ông ta không hỏi vé mà nói chuyện: chuyện ngày Tết, chuyện chiến
tranh, chuyện làng Tề, chuyện kháng chiến. Liêm được biết tên thiếu nữ là Bích;
trong câu chuyện người xoát vé hỏi thăm Bích về Liên, một bạn thân thường buôn
chung với Bích đã lâu không thấy đi tàu. “Chị ấy ốm. Chồng chị không cho đi chợ
nữa”. “Cô xuống Phòng có việc gì mà hôm nay mới về? Dạo này cô lại buôn gì
xuống Phòng. Bỏ đường Cẩm-giàng rồi à?” người xoát vé hỏi. “Tôi xuống thăm chị
Liên. Chị Liên bây giờ dọn xuống Phòng rồi. Với lại đòi tiền mãi mới được nên
bị mắc kẹt không về kịp trước Tết”. Toa tàu bỗng trở nên vui vẻ ồn ào thân mật
hơn khi Bích muốn ăn bánh giò và mời mọi người: “Tôi mới trúng áp-phe mà...
Đừng từ chối. Mùng một tôi rông cả năm”. Và Bích quay lại nói lớn
với Liêm để át tiếng động của tàu đang chạy: “Mời ông xơi bánh”. Liêm bối rối
đáp: “Cám ơn cô”. Chị bán bánh bưng thúng bánh đến ngồi bên Bích, theo lời
Bích, bóc bánh đưa đi mời cả toa. Trước hết là người xoát vé, rồi đến hai người
đàn bà nhà quê, hai người này nhận bánh và mang đến chỗ Bích ngồi ăn nói chuyện.
Khi đến lượt mình, Liêm chưa biết nên nhận hay từ chối, Bích đã nói: “Mời ông
đến ăn với chúng tôi cho vui. Chẳng mấy khi mà lại phải ăn Tết lưu động như thế
này”. Liêm đành cầm cái bánh đã bóc trên tay, đến ngồi cùng ghế với người xoát
vé, vừa ăn chậm chạp vừa nghe người khác trò chuyện không biết cách góp. Trong
câu chuyện, người xoát vé hỏi Bích: “Cô nghĩ thế nào về chuyện bà Cát Hanh Long
trên Thái nguyên?” cải cách
cải cách cải cách cải cách cải cách cải cách cải cách cải cách cải cách cải
cách cải cách “Tôi có người nhà mới vào nói chuyện đấu tố là có thật.
Kinh khủng lắm, không thể ngờ được”. Liêm hỏi: “Ông nói cái gì, đấu tố cái gì?”
Người xoát vé nhìn Liêm bằng cặp mắt hoài nghi và Liêm vội giải thích mình vừa
ở Sài-gòn ra. Ông ta thuật lại câu chuyện về bà Cát Hanh Long, đại điền chủ, đã
từng cúng hết sản nghiệp cho kháng chiến từ lúc đầu, có ba đứa con trai đi bộ
đội, bị đưa ra trước tòa án nhân dân phải tự vẫn. “Trong tuần lễ vàng, bà đã
cúng đến cả chục kí vàng cho chính phủ. Bao nhiêu đồn điền của bà ở Thái-nguyên
đều dâng cho chính phủ kháng chiến hết... Vậy mà bị kết tội là địa chủ phản
động bóc lột”.cải cách ruộng
đất cải cách ruộng đất cải cách ruộng đất cải cách ruộng đất cải cách ruộng đất
cải cách ruộng đất cải cách ruộng đất cải cách ruộng đất cải cách ruộng đất cải
cách ruộng đất cải cách ruộng đất cải cách ruộng đất cải cách ruộng đất cải cách
ruộng đất cải cách ruộng đất cải cách
ruộng đất Và câu chuyện chuyển sang ngả khác. Bích hỏi về chuyện
Sài-gòn. Liêm kể về cuộc kháng chiến trong Nam, tinh thần của dân chúng, các tổ
chức nằm ngay trong nội thành. Trẻ con, thanh niên hát những bài kháng chiến
ngay ngoài đường phố, một lời kêu gọi bất hợp tác với quân Pháp tung ra học
sinh công chức cả công an nữa bỏ thành ra bưng tới độ phải mời bớt họ về thành,
những kẻ cộng tác hương chức trong làng hay nhân viên chính phủ bị ám sát giữa
ban ngày... Và thành phố Sài-gòn vẫn nguyên vẹn rực rỡ, tấp nập. Bích hỏi: “Tài
nhỉ? Tại sao thế?” “Vì Sài-gòn Chợ-lớn cũng là một chiến khu..” “Rồi ông sẽ thấy
Hà-nội khác hẳn. Không giống như Sài-gòn đâu”. “Tôi cũng nghĩ thế”. Liêm thấy
Bích dễ thân mật, con gái Bắc đã thay đổi chăng, không còn kiêu kỳ như mình vẫn
tưởng chăng?
— Bỏ đi lâu
quá, tôi chẳng còn nhớ được mấy tí. Sắp đến đâu rồi cô.
Tàu đang chạy
chậm, leo vòng lên một dốc cầu. “Cầu Phú- lương”, Bích nói. “Đến
Hải dương đấy”. Người xoát vé chào Bích, đội mũ đứng lên đi ra ngoài đầu toa.
Chị bán bánh, dẹp cuốn lá, ném ra ngoài cửa sổ, đập nắp thúng sửa soạn rời toa.
Liêm bạo dạn ngắm Bích, đứng chống tay khum người nhìn ra ngoài.
Tàu chạy
thật chậm trên cầu. Thành phố Hải dương trông xa lô nhô những mái nhà thấp bé
và một vài phố ngắn, thành phố buồn tẻ Bích đã xuống vài lần với Liên không lâu
quá hai tiếng đồng hồ. Con phố chính từ dốc cầu này chạy đổ xuống, gồm hai dẫy
nhà một từng hai từng cũ mới lẫn lộn, chạy qua nhà thờ, phòng Thông tin, rạp
chiếu bóng và đến nhà ga; những công thự ở lui trong các phố ngang. Trong một
hiệu cao lâu ở phố chính, Bích ngồi nhấm nháp một cốc chanh quả, nhìn qua cửa
kính ra phố nắng bụi mỗi khi xe chạy qua, trong khi Liên đi tìm gặp Labay, tên
Tây lai chánh sở mật thám liên bang. Có lẽ họ gặp nhau trong bàn giấy, rồi về
nhà hay đến một hôtel bẩn thỉu nào trong tỉnh. Bích vừa thương hại, vừa giận
Liên. Không thể tưởng tượng Liên có thể nằm trong tay những người đàn ông như
thế. Nghĩ đến cái thân thể ốm o, bẩn thỉu của Tích, cánh tay lông lá, cặp môi
dầy, mắt đục như mèo của Labay sẽ đụng đến da thịt muốn lợm giọng buồn nôn. Một
người đàn bà làm sao có thể yêu hai ba người đàn ông khác nhau, làm sao có thể
nhận được những thân thể khác nhau. Cái thân thể đàn ông, Bích nghĩ, may ra vì
yêu chịu đựng nổi một trong đời đã quá lắm. Không hiểu Liên có yêu những người
ấy không, những người mà mỗi hơi thở là một tội lỗi với đồng loại. Không sao
hiểu nổi Liên, cũng không sao hiểu nổi mình. Tại sao tôi cứ mãi là kẻ làm chứng
trong những cuộc tình của Liên? Sau cái vẻ mặt hiền lành đến độ nhẫn nhục, nụ
cười buồn bã như ánh nắng muộn, che dấu những gì? Mỗi lần trở lại đón Bích để
lên tàu về, Liên ngượng nghịu bối rối trông thấy. Bích đã hỏi thẳng về những
cuộc gặp mặt mờ ám ấy và Liên dối quanh. Chỉ là người quen cũ của gia đình,
xuống nhờ việc, chạy một áp-phe. Không hiểu bây giờ Liên còn gặp Labay nữa
không?
Còn anh
chàng Thạch nữa, không hiểu thuộc hạng người nào? Hắn mất tích sau lần tìm đánh
Tích sau nhà tắm công cộng Chợ Gạo, không thấy trở lại hỏi tin Liên nữa. Lầm
lì, hung hãn giống như tên côn đồ. Không hiểu sao tôi lại bằng lòng đưa hắn đi
tìm Liên tối hôm ấy? Có lẽ vì sợ. Bề ngoài tôi vẫn tỏ ra cứng cỏi đương đầu với
bọn đàn ông luôn luôn vây quanh tìm mọi cách lợi dụng, khác với Liên mềm mỏng
khôn khéo trong khi còn buôn chung, nhưng thật ra tôi cũng sợ. Hắn có thể gây
những chuyện rắc rối phiền phức, trong cái xã hội tranh tối tranh sáng này
không biết đâu mà lường trước được. Nhưng chắc chắn không thể như Liên, không
thể như thế được. Chiến tranh sẽ chấm dứt, xã hội này sẽ thay đổi và Bích...
Bích nghĩ tới Hội còn ở ngoài hậu phương. Hội. Anh như một mối hy vọng duy
nhất, anh sẽ trở về. Sự thật chưa có gì cả, ngày ấy tôi còn nhỏ, nhưng tôi vẫn
tự coi anh như người tình để được chờ đợi. Anh có thể không yêu em nhưng anh có
thể chết, và anh thuộc về em. Nhưng anh trở về. Còn gia đình? Ông bố nghiện, lũ
em nheo nhóc. Gia đình này thay đổi được không? Không còn dám nghĩ tới nữa. Cả
nhà đợi mang tiền về ăn Tết, mà hôm nay đã mùng một Tết. Đáng lẽ có thể về từ
hăm chín, tàu đang vào ga, sân ga cũng chẳng vắng hơn ngày thường mấy, chỉ tại
Liên. Người đàn ông đã cởi chiếc áo dạ mặc ngoài, có những nét hao hao quen
thuộc không nhớ gặp ở đâu. Tàu đỗ hẳn và người đàn ông nói:
— Nhờ cô
nhìn dùm mấy cái va-ly, tôi xuống đất một chốc cho thoải mái. Tàu đỗ lâu không
cô?
— Còn lâu.
Ông cứ tự nhiên.
Hắn nhảy
xuống dưới đất, đi ngược lên phía đầu máy. Bích nhìn chiếc áo dạ nằm vắt phủ
trên hai chiếc va-ly, đã cũ trụi gần hết lông màu ngả bạc. Trời hé chút nắng ấm
nhưng không thấy bóng. Nhìn đồng hồ tay, Bích nghĩ phải quá trưa mới về đến ga
hàng Cỏ. Bích mở chiếc làn mây, kiểm lại các món vật hình như còn quên một thứ
nghĩ không ra. Cảm tưởng mất mát lúc buổi sáng khi vội vã ra ga lại xuất hiện.
Cả đêm ngồi tâm sự với Liên đến ba bốn giờ sáng mới chợp mắt một lúc. Tích ngáy
khò khô trên giường, hắn có vẻ hãnh diện về việc làm hoàn tất của mình. Mãi
chín giờ tối hắn mới mang tiền về, trao đủ cho Liên để trả Bích.
Bích thở phào như thoát nạn. Bích mang xuống hai cân hàng mo, lẽ ra đưa hết cho
chỗ tiêu thụ nhưng nghe Liên than phiền thiếu tiền ăn Tết đã trao cho Liên một
cân để chạy ăn hoa hồng. Liên đưa cho Tích và giao hẹn trước mặt Bích: “Cô ấy
giúp tôi tiền ăn Tết. Anh không thể làm lăng nhăng được đâu. Tích thề bán sống
bán chết và mỗi buổi chiều hắn đều nhăn nhó khổ sở vì bị khất. Đáng lẽ Bích có
thể về từ hôm hai mươi chín nếu không đưa hàng cho Liên. Cũng may, giao thuốc
phiện cho anh nghiện chưa ai dại bằng Liên với mình, chẳng hiểu cơ gì hắn có
thể sòng phẳng được như thế. Liên gầy và xanh hơn trước nhiều. Không hiểu còn
gặp những người đàn ông khác nữa không? Trên cánh tay và bắp chân Liên có những
dấu bầm tím. Tại sao Liên có thể chịu mãi được? Liên chỉ biết chảy nước mắt
than thở: “Cái số của tôi nó khốn nạn như thế”. Lúc ấy giao thừa vừa xong và
hai người còn ngồi trên ghế con ngoài hàng hiên ngắm những ngọn nến lay động
chực tắt. Bích không muốn nhắc nhở Thạch với Liên trong suốt mấy ngày, cũng
chẳng ích gì, nói rằng Thạch tìm Liên, nhắn không bao giờ quên Liên để làm gì.
Chuyện đã quá xa cũ, Liên không thể làm hơn được. Phải không? Một ngày nào họ
gặp nhau lại, họ sẽ tự nói lấy, nếu họ còn được gặp nhau lại. Cũng mong là Liên
yêu Thạch vì dù sao có lẽ chỉ có Thạch là người đàn ông yêu Liên.
Người đàn
ông trở về, tay cầm mấy phong bánh khảo, bánh đậu xanh, mời Bích. Bích nói:
— Bánh khảo
đây ngon có tiếng. Ông để dành về Hà nội làm quà.
— Thú thật
với cô, tôi chưa có ai quen ở Hà nội để làm quà. Chính tôi về cũng chưa biết ở
đâu.
Bích ngạc
nhiên, hoài nghi:
— Ông không
có gia đình mà lại về vào ngày Tết này. Sao ông không ở lại Hải phòng đợi đến
mùng bốn đã.
— Tôi đến
Hải phòng chiều hôm qua. Ở Hải phòng tôi cũng chẳng có ai quen. Đêm qua tôi ăn
giao thừa ở hôtel với một anh chàng say chán đời. Chán quá nên tôi nghĩ cứ về
bừa Hà nội. Chẳng lẽ cả thành phố lại không có chỗ nào tá túc được hay sao. Năm
tôi vào Sài-gòn tôi còn ngu ngơ hơn bây giờ mà chẳng chết nữa là...
Bích nghĩ thầm: làm đàn ông thật sướng, bạt mạng chẳng sợ gì hết. Nghĩ
đến những đêm phải ngủ trọ nhà lạ, thao thức trằn trọc, suốt đêm thấp thỏm lo
sợ những hình thù mò mẫm trong bóng tối, Bích thấy tuy phải nằm ép mình giữa
hai đứa em trong gian buồng chật chội, hôi hám hơi người và khói thuốc phiện
còn hơn. Nhất là mấy đêm ngủ lại nhà Liên, nhà chỉ có một buồng nghe rõ tiếng
lục đục bên giường, Bích nằm trên đi-văng cứng mỏi, ghê tởm. Nhiều lúc giật
mình, tay chân giá cóng, hơi thở dồn, tim đập nhẩy, tưởng như Tích đến gần sờ
mó vào người và Bích có thể giết chết được đứa đàn ông bẩn thỉu. Thế mà Liên
chịu đựng được? Người đàn ông nói: Xin lỗi cô, và hắn xách va-ly nhỏ sang băng
phía bên kia kê đầu nằm nghiêng duỗi thẳng chân. Hai người đàn bà nhà quê đã
xuống ở ga Nam-sách, không có hành khách lên thêm, chỉ còn hai người trong toa
rộng với gió nắng lùa chạy vùn vụt. Bích tháo khăn trùm tóc, nghe hai tay tê
giá dần dần. Người đàn ông nào cũng giống người đàn ông nào, nặng nề, chậm
chạp, ẩm ướt, nhiều khói bụi. Bích không tưởng tượng ra người chồng tương lai
của mình như thế nào, Hội, lâu ngày đã quên hẳn mặt, nghĩ đến như một lý tưởng
trừu tượng xa vời. Tình yêu chăng? Tình yêu như hướng vọng, đợi chờ một ảo
tưởng có thể thành sự thật hay sự thật lúc nào cũng có thể thành ảo tưởng. Anh
chàng Thiện, y tá bệnh viện Phủ Doãn, cao lòng khòng, chỉ có cái thú độc nhất
là vô-lê-ban, người lúc nào cũng thơm nức mùi nước hoa, đỏm dáng như con gái;
bà mối giới thiệu anh chàng sẽ là một người chồng, người cha gương mẫu, mỗi lần
hắn gỡ đôi kính trắng lấy khăn lau mắt hấp háy như gặp nắng trông đần độn khó
chịu, nhìn vào mắt hắn như nhìn vào đôi mắt mù. Một anh chồng không nhìn được
gì vượt khỏi tầm mắt cận thị. Bích sực nhớ mình đã hai mươi hai tuổi, hai mươi
bốn tuổi với tình yêu tự tạo để tưởng nhớ, để thuật với bè bạn khi cần chuyện
tâm sự. Một thiếu nữ trong thành chờ đợi người tình ngoài kháng chiến. Ngọc
bảo: đó là một hạnh phúc, và lúc ấy quả cũng cảm thấy tâm hồn bay bổng như được
vuốt ve an ủi. Hội ở đâu? Hội ra sao? Hội còn nhớ đến tôi không, đứa con gái
ngày đó mới chừng mười bốn, mười lăm tuổi. Tàu đỗ lại Cẩm-giàng, đợi chuyến
xuống. Nhìn ra ngoài ga, phố quận đìu hiu hơn. Người đàn ông chừng ngủ say mệt,
quay mặt ra ngoài lối đi. Nét mặt gồ ghề, sáng tối lẫn lộn. Bích loay hoay lục
lọi trí nhớ tìm cái khuôn mặt giống đã gặp. Một khuôn mặt già sạm đứng im nhưng
lẩn khuất những nét ngây thơ dại dột. Bích nghĩ không hiểu ở nhà bà cụ có xoay
đỡ được ít tiền tiêu Tết không. Sáng mồng một, nhà tấp nập khách khứa mà không
có tí gì coi cũng không được. Bích mừng thoát khỏi phải tiếp khách mệt nhoài.
Ông bố chắc đã dẹp bàn đèn vào tận giường trong cùng và cả ngày bữa qua bọn em
phải xoay trần dọn dẹp nhà cửa. Con Loan mệt, tối sẽ tìm một só ngồi khóc rấm
rứt; đã hai năm nó vẫn mơ ước một cái áo dài. Tiếng chân đi dẫm trên đá xanh
lổn nhổn bên thành toa. Kính đứng dưới đất nói lên:
— A, cô
Bích. Hôm nay cô cũng đi chợ nữa sao? Năm mới chúc cô năm nay cho tôi uống
rượu.
— Năm mới
chúc Thiếu úy thăng chức. Có nhắn gì Ngọc không, tôi về nói lại cho.
Kính đỏ bừng
tai, chớp mắt, nhe răng cười. Hắn là trưởng đồn, vốn thầy tu xuất, vẫn theo
đuổi Ngọc. Ngọc lấy làm xấu hổ vì bị một người như Kính mê, cô nàng nói: “Trông
nó bề ngoài lờ mờ vậy mà giết người không gớm tay”. Ngọc nghỉ chợ vì ngại gặp
Kính, cô nàng đi buôn như làm những chuyến du lịch, con một gia đình thầu khoán
phong lưu, Ngọc đòi đi buôn để được theo Bích và Liên xuôi ngược hằng ngày.
Chiều nay sẽ lại thăm Ngọc, cô nàng bây giờ lại hoạt động hướng đạo trong khi
chờ đợi lấy chồng.
— Hôm nào
Thiếu úy về Hà-nội?
— Có lẽ còn
lâu.
Kính rút
khăn tay lau mặt và cổ, có lẽ hắn muốn hỏi thăm Ngọc nhưng không biết cách mở
lời, hắn cũng biết Ngọc ghét hắn. Hắn đứng nép vào thành toa ngửa cổ nhìn đoàn
toa xuống ép hắn vào giữa, tiếng máy chuyển động át mất câu nói của hắn. Mãi
sau Bích mới nghe được đoạn cuối: ... Các cô nghỉ chợ, Cẩm-giàng buồn quá. Bích
cười nhìn theo Kính mập mạp, lùn thấp len giữa hai đoàn tàu và leo lên mất hút
ở một toa tàu bên. Người đàn ông thức dậy ngồi lên ngơ ngác.
— Gần đến
Hà-nội chưa cô?
— Chưa. Ông
có thể ngủ một giấc nữa.
Hắn móc
thuốc lá châm hút, nhìn qua đoàn tàu ngược tò mò. Bích cố nhớ lại những nét
quen trên mặt người lạ và một chốc những nét quen bị bôi xóa chỉ còn lại hình
ảnh xa lạ hoàn toàn của một người đàn ông giống như những người khác. Trời còn
se lạnh nhưng vẫn nghe mồ hôi dâm dấp, có lẽ đói và khát. Cảnh vật trở nên nhàm
mắt. Đồng ruộng, đồn bót, làng xóm trong bầu trời thoáng nắng ủ ê. Con đường
cái chạy theo tàu lúc sát tới, lúc lui xa, lúc cắt ngang mất tích. Lâu lắm mới
gặp một chiếc xe hơi trên đường. Tàu đỗ lại những sân ga không người, chỉ có
tường gạch loang lở hoặc lỗ chỗ vết đạn bên những đầm nước bèo cỏ mọc hoang mọc
tủa lên những cọc nứa dăng hàng, một hai phố quận chỉ là hai dãy phố lụp xụp
dựng bên đường cái với đồn canh chặn đầu. Vẻ hoang tịch trên mọi vật phơi bầy.
Liêm muốn được nhìn thấy cảnh tượng đang diễn trong vòng những lũy tre dầy cô
lập các làng mạc giữa vùng đồng ruộng bát ngát. Ở đây vừa trống trải, vừa cô
đơn. Không còn sự luông tuồng nối kết dằng dặc bởi bờ bụi, cỏ cây, nương rạch từ
làng này qua làng khác như đồng ruộng trong Nam. Bất cứ chỗ hẻo lánh nào giữa
bưng biền vẫn có thể gặp người và nhà ở. Ở đó hoang dã nhưng không cô đơn. Liêm
nghe thốn trong bụng cảm giác mình đang dấn mình về nơi không được che chở.
Bích bỗng hỏi:
— Ông về
Hà-nội định làm gì?
— Tôi chưa
biết. Cũng có thể ít lâu tôi lại vào Sài-gòn.
— Ông có vẻ
thích Sài-gòn.
— Tôi có cảm
tưởng như tôi đã là người Sài-gòn. Tôi đã ở trong ấy hơn mười năm. Về đây thấy
cái gì cũng lạ. Cũng sợ. Chắc tôi không thể sống được ở Hà-nội.
Bích cười,
nàng búi lại đầu tóc, tiếng cười trong đơn giản. Liêm cười theo, rồi đứng dậy
nhấc va-ly đặt về chỗ cũ.
— Quê ông ở
đâu?
— Từ nhỏ tôi
đã sống ở tỉnh. Tôi đã bao giờ về quê đâu. Mười bảy tuổi là tôi bỏ nhà đi rồi.
— Ông anh
hùng nhỉ?
— Không
phải. Mỗi người có một hoàn cảnh.
Anh hùng.
Không tôi không phải là anh hùng. Đó là lời nói mỉa. “Tôi không phải sinh ra để
làm cách mạng. Tôi tầm thường, tôi sống như mọi người. Tôi phục chị Hai nhưng
tôi không muốn làm như chị”. Chị Hai, vợ của nhà cách mạng nổi tiếng đã chết
ngoài Côn đảo trong thời Pháp thuộc, được anh em tôn gọi và kính nể, sống hẩm
hút với mấy đứa con tại chùa Bà-đầm nhưng vẫn nuôi chí chồng, cầm đầu tổ chức
phụ nữ nội thành; Tường đã dẫn Liêm đến thăm sau ngày Liêm được thả và thất
vọng chán nản vì bị bỏ rơi, hy vọng Liêm trông gương chị. Tường bảo: “Ở bất cứ
địa vị nào người ta cũng có thể tham gia cách mạng”. “Không. Tôi không làm cách
mạng, tôi chỉ muốn làm việc”.
— Tôi có
người bạn cũng người Bắc vào Nam từ lâu, lúc tôi về anh có khuyên tôi không
nên. Tôi không tin.
— Ông vội
quá. Ông đã về đến Hà-nội đâu.
— Cô đã
chẳng nói Hà-nội không giống Sài-gòn hay sao?
— Tôi nghĩ ở
đâu rồi quen đấy.
Vấn đề không phải là quen, sống không thể chỉ là thói quen. Trưa
đang nhẹ dần, không khí ấm hơn. Tàu bắt đầu chạy chậm, qua cửa sổ những mái nhà
thấp bé bắt đầu xuất hiện. Bích nói: Đến Gia-lâm rồi. Bỗng dưng Liêm nghe nao
nức lạ lùng, thò đầu ra ngoài cửa sổ nhìn. Quang cảnh nhà ga đượm vẻ thân cũ,
những bồn nước, cần ghi, các kho tối đóng cửa, các toa than rải rác, đường sắt
dan díu, nằm nguyên chỗ như chưa bao giờ đổi thay. Trong một phút, tâm trạng
biến đổi hẳn, tôi đang đặt chân bước vào ranh giới của một vùng mơ ước của tuổi
nhỏ.
— Tôi không
hiểu Hà-nội thay đổi thế nào nhưng tôi thấy Gia-lâm không thay đổi mấy.
Bích quàng
khăn lên đầu, mở nắp làn mây có lắp tấm gương con soi mặt. Liêm nhấp nhỏm chờ
đợi con tàu huýt còi rời ga để chạy lên cầu Long Biên. Đường phố Gia-lâm vắng
ngắt như trong một bức ảnh chụp kỷ niệm. Ngày nào xa lắm, tôi đã ngồi trên
chuyến tàu này cùng đứa em trai và mẹ lên Hà-nội sau khi bố chết. Thạch đội
chiếc mũ nồi đỏ, chiếc mũ nồi lúc qua chợ Đồng- xuân bị kẻ cắp giật mất khi nó
ló đầu ra ngoài cửa sổ tàu điện dáo dác nhìn phố; sức giật quá mạnh khiến môi
nó vập xuống thành cửa gẫy mất một cái răng. Gió bốc lên từ mặt sông Cái nước
đã rút bớt, thành cầu ầm ì vang động lùi mãi. Giải đất nổi chia đôi mặt sông
xanh um cây cối, thỉnh thoảng xen những khoảng vườn ngô đều hàng thưa trống.
Tiếng động của gióng cầu như một khúc nhạc vang âm và từ phóng trong thời gian
của trí tưởng. Hà-nội như một niềm thân mật cuối cùng còn sót phải tìm lại.
Đường bộ trên cầu chỉ là lớp gỗ nằm gung đen bóng thỉnh thoảng điểm một vệt
sáng đen của sắt. Đường bờ sông bến Nứa, bồn nước hàng Đậu... vẫn còn nguyên.
Tàu chạy trên cầu đá qua hàng Giấy, sông Tô-lịch, men theo đường Thành. Như từ
đỉnh cây dòm xuống, thành phố nghiêm trang vắng người bốc lên một bầu không khí
huyền hoặc.
— Hà-nội vẫn
không thay đổi gì cả.
Bích đứng
lên, Liêm nhích người nhường chỗ cho nàng trông xuống phố. Bích quay nghiêng
mặt khẽ mỉm cười, hai bàn tay nàng víu lấy thành cửa tím trắng.
— Tôi chỉ
thấy nó nhỏ quá, không còn lớn như trong trí nhớ.
Tàu đã chạy
xuống phố, ngang qua những rào cản. Một vài người, hai ba chiếc xe đạp, một
chiếc xe hơi đứng đợi dưới phố. Con tàu như chạy quá nhanh và khi đỗ lại bên
một mái hiên chụp tối của ga, Liêm bàng hoàng ngơ ngẩn. Bích nhấc chiếc làn mây
đeo vào tay tiến ra ngoài đầu toa. Liêm chậm chạp khoác áo dạ vào người, sách
hai chiếc va-ly lên. Bước xuống đến sân ga, Liêm đã thấy Bích tiến vào đến cửa
vào nhà ga. Mươi hành khách nữa xuống ở một toa gần cuối, trong ấy có hai người
đàn bà cùng đi trên chuyến tàu thủy. Họ không trông thấy Liêm và Liêm nhìn họ
như những người quen cũ. Ra đến cửa ga Liêm gặp Bích vẫn còn đứng trên thềm.
Con đường hàng Lọng thật xa thật thấp.
— Ông về
đâu?
Liêm móc túi
tìm lá thư của Tùng, đọc lại địa chỉ, đưa cho Bích xem. Bích nói: Ông gọi xe
về, đây vô đấy khá xa. Chúc ông năm mới mọi sự như ý. Bích thoăn thoắt bước
xuống các bực thềm, đi khuất vào phía tường ga nhô ra thu hẹp con đường. Liêm
nhìn khoảng trống trước mắt. Mặt đường rộng, con đường tàu chôn dưới nhựa, xe
tuần cảnh nhà binh đậu ở một góc đường, hàng cây xanh sâu sao động.
Liêm không
vào thành phố, địa chỉ Tường giới thiệu là nhà thương Bạch-mai. Phải mất gần
giờ đồng hồ mới tìm được một chiếc xích lô bằng lòng ra ngoại ô, người phu xe
già rách rưới hom hem trông như mùa đông vẫn còn xung quanh, như hình ảnh miền
Bắc đói rét co ro không thay đổi. Chiếc xe tuy đã mất, nhưng còn lại những
người phu xe này. Tối mùa đông, cửa ngõ đóng kín, Liêm nghe tiếng gõ cửa gọi,
bà cô có môn bài thuốc phiện phải bật đèn dậy càu nhàu, mở hé khuôn cửa gỗ tròn
đút lọt một cánh tay dơ bẩn khẳng khiu van nài, gió rít ào ào ngoài trời, bóp
thuốc đặc quánh trong chiếc hộp đồng đục hai lỗ nhỏ vào trong vỏ hến; người phu
xe kì kèo xin thêm một giọt, le chiếc lưỡi thâm tái liếm sạch chất thuốc trong
lòng vỏ trắng có vân xanh đỏ hoặc năn nỉ xin mua những chiếc rẻ rách lau hộp
đồng; trong đêm lạnh giá, bình nước nóng ủ dưới chăn bông của bà cô, tiếng vỏ
không ném rơi trên hè đường. Bên trái khu đóng quân của quân viễn chinh, bên
phải hàng tường dài của ga, lấp ló vài mái nhà. Ngã tư Khâm-thiên-hàng Lọng. Phố
Khâm-thiên hiện một khúc ngắn, đường tàu chạy ngang, lầm lội bụi bậm. Con đường
chạy ra ngoài giữa cánh đồng, chuyến tàu điện một toa loong koong như không có
hành khách. Buổi chiều chớm nở nhạt nhẽo trong khoảng gió lớn, lất phất mưa
bụi. Một vài chiếc vận tải nhà binh chạy như giông gió nhắm hướng thành phố,
mỗi lần người phu tạt xe vào vệ đường đỗ lại, Liêm nhắm mắt tránh gió tạt cay,
làu nhàu nguyền rủa bọn tài xế bất lương. Ngày quá dài, chiến tranh cũng đã quá
dài. Tôi như kẻ mệt mỏi đào ngũ, về đây... Liêm mường tượng điệu hát của người
thiếu nữ trên tàu biển trong buổi mai sảng khoái, im cơn say sóng; Mới đó, đã
tưởng thuộc vào một quá khứ xa vời. Ở đây mọi vật, mọi người, cả trong không
khí lửng lơ, đều khép kín, nghi kỵ, đầy bất trắc. Rồi tôi sẽ phải đi tới nữa.
Khu vực nhà thương rộng, nhiều tòa nhà lớn, cây cối um tùm. Dây phố lá trước
mặt bệnh viện không có vẻ Tết, các cửa hiệu vẫn mở nhưng không có khách, một
vài chiếc xích lô đậu nghênh gếch một bánh trên mặt nhựa cao, một bánh dưới đất
lún trước các nền nhà, chỉ có những đứa trẻ mặc quần áo súng sính đứng ngơ ngẩn
nhìn quanh. Trong sân nhà thương, một hai người lẽo đẽo đi mãi tới tòa nhà ba
từng ở sân. Liêm sách va-ly, đi vào cửa ngách, hỏi thăm người canh gác, một
người đàn ông đứng tuổi lầm lỳ như mật ngày trời lạnh.
- Ông Hỗ hả?
Ông Hỗ làm bên khu lao phải không? Không biết ông ấy có về quê ăn Tết không?
Đâu ông thử vào trong tìm xem.
Người gác ra
khỏi chỗ ngồi, trước một cái bàn mộc có đặt ở góc một quyển sổ bìa đen, đi ra
ngoài phòng, chỉ trỏ rắc rối: đi thẳng vào, bên trái tòa nhà thứ nhất, đi nữa
đến chỗ để xe, rẽ tay phải, một cái ngõ, đi vào rẽ tay phải, qua một cái sân,
đằng sau tòa nhà thứ hai, dãy nhà ngang, nhà thứ hai thứ ba gì đấy. Lối đi trải
nhựa đen nổi hằn vết đá lồi lõm, cây lớn và cao, mương xi-măng khô cứng dưới
chân tòa nhà lầu nhiều cửa sổ. Liêm loanh quanh một lúc, lạc lối vào một sân cỏ
không người hôi mùi y dược và rác rưởi ở đâu quanh, đi liều vào trong một hành
lang tường lát gạch men trắng với những phòng cửa kính bôi trắng không nhìn qua
được và cũng không gặp ai để hỏi thăm. Dù sao cũng phải tìm cho bằng được Hỗ, ở
tạm cho qua mấy ngày Tết không thể lang thang ở Hà nội được. Từ trong một cửa
phòng mở đột ngột, một dì phước đi ra và quay lưng đóng cửa; Dưới lần khăn che
một khuôn mặt trái soan xanh mướt và cặp mắt mơ màng, ngước lên tò mò. Liêm
dừng bước không biết có nên hỏi thăm không. Dì phước quay mặt bỏ đi vội vàng,
vạt áo xòe kêu sột soạt trong hành lang vắng. Nửa giờ Liêm mới tìm được nhà của
Hỗ, nhà đóng cửa đi vắng. Nhìn qua cửa sổ nhà bên cạnh, một bàn bất đông đúc
quây quần trên một tấm phản. Một người đàn bà hỏi ra: “Ông hỏi ai? Ông Hỗ à,
ông Hỗ ở trên buồng hộ sinh”. Liêm đặt va-ly, xuống hè, nhìn trời, thỉnh thoảng
liếc nhìn vào bàn bạc vang động tiếng cười đùa ồn ào vui vẻ. Liêm nghe mệt
nhoài cả thân xác và ý nghĩ, chỉ muốn được một chỗ ngả lưng, đứng tựa vào tường
thất vọng. Một người đàn ông, mặt mày đỏ sậm đi đến trước mặt Liêm hất hàm hỏi.
“Ông Hỗ, có khách hỏi thăm ông đấy. Ông ấy đấy”. “Hỏi tôi?” Thái độ của Hỗ
ngang bướng sấc xược, không đợi nghe Liêm nói, quay lưng mở cửa nhà và bước
vào. Liêm theo chân, móc túi lấy thư của Tường và tự động ngồi xuống ghế. Hỗ
chăm chú đọc thư, chậm chạp như phải đánh vần từng chữ, còn Liêm ngồi quan sát
thân hình vạm vỡ, khuôn mặt ngang ngạnh của Hỗ. Đọc xong thư, Hỗ thay đổi hẳn
thái độ, tươi cười vồn vã, Liêm thở phào khoan khoái.
— Ở đây, chú
không có nhà ở tạm đây với tôi. Chú thân với anh Tường cũng như là thân với
tôi. Không có gì ngại cả. May mà vợ tôi nó đi vắng, cũng đỡ phiền. Chú biết đàn
bà là hay kiêng cữ. Tôi thì không có. Chẳng như mười mấy năm mình sống ở Tây về
mà lại vẫn còn lạc hậu.
Hỗ thao thao
không ngớt, quay tròn bén gót Liêm, đưa Liêm vào buồng trong rửa mặt thay quần
áo, xách cất va-ly, dọn bánh trưng, rượu ra bàn. Chưa bao giờ Liêm được ăn một
bữa ngon miệng như vậy. Hỗ, biểu lộ một bản chất bộc trực, quê mùa, đã đi lính
thợ sang Pháp, lấy vợ đầm và khi về nước “bỏ thẳng cánh không thương tiếc”. Hỗ
cười ha hả như trả được một phần mối thủ của dân tộc. Nhưng khi ăn Hỗ vẫn dùng
dao, nĩa, “không quen cầm đũa, dao nĩa sạch sẽ vệ sinh hơn” như dấu hiệu khoe
khoang một thời ngang dọc đã qua; Hỗ nhắc đến Tường bằng giọng kính phục như
bậc đàn anh trí thức ngang hàng: Hỗ gặp Tường ở Pháp khi anh vừa ở trường
Mỹ-thuật ra, mở cuộc triển lãm đầu tiên tại nhà hàng Continental, gia đình bắt
cưới vợ, bỏ nhà trốn sang… “Tôi tưởng anh Tường vẫn chỉ ở Sài-gòn. Không nghe
anh ấy kể…” Liêm hỏi. “Tính anh ấy thế, anh ấy không thích kể chuyện đã qua.
Năm tôi về nước gặp anh ấy ở Sài-gòn trông anh ấy lại thành người khác rồi. Có
lẽ không ai biết rõ quá khứ anh ấy hơn tôi”. Hỗ kể chuyện ngủ với đầm, hành hạ
đầm một cách sướng khoái, “một con đầm, nhà khá giả mê anh Tường như điếu đổ mà
anh ấy không thèm. Chú thấy không? Anh ấy thật là cách mệnh”. Hỗ uống rượu như
hũ chìm, không để cho Liêm nghỉ ngơi. Tối đến Hỗ dẫn Liêm sang nhà hàng xóm
giới thiệu, bắt Liêm cùng ngồi đánh bất với mọi người. Người ta hỏi thăm bệnh
tình vợ Hỗ, Hỗ nói: “Yên rồi. Mấy ngày nay tôi mệt đứ đừ với nó. Hôm nay có
người bạn ở Sài-gòn ra, tôi phải chơi cả đêm không thì mai hết Tết rồi”. Vợ Hỗ
bị xảy thai, Hỗ bảo vì thiếu vệ sinh, người Việt nam thiếu vệ sinh. Nhiều người
cười. Khoảng mười một giờ đêm, Liêm cáo mệt đứng dậy và Hỗ cũng thôi. Nhưng
suốt đêm mùng một, Liêm chỉ ngủ được một cách chập chờn vì Hỗ không ngớt chuyện
trò. Hết chuyện bên Tây đến chuyện Sài-gòn, hết chuyện Sài-gòn đến chuyện
Việt-nam, Việt-nam bẩn thỉu, khốn nạn, không hòng ngóc đầu lên nổi, hết chuyện
nước đến chuyện nhà, chuyện vợ con, công việc... Liêm nằm ngửa như bị một cơn
say trống đuổi mất giấc ngủ, lâu lâu ậm ừ phụ họa, nghĩ không ra mục đích những
ngày sắp đến, kiếm việc, đi làm, sẽ trở về thăm Bắc-ninh, hỏi thăm tin tức bà
cô, mẹ và đứa em. Có lẽ sẽ trở lại Sài-gòn và chuyến về Bắc này chỉ như chuyến
thăm gia đình?
Sáng mùng
hai, thức dậy Liêm không còn thấy Hỗ trong nhà, anh ta đi thăm vợ. Liêm ngồi ở
bàn ngoài đợi Hỗ, nghe những lời chúc tụng đầu năm hai bên hàng xóm, mấy chục
năm những lời ấy không chút đổi thay. Tòa nhà lớn áng dọc một bên tầm mắt,
ngoài cửa là một khoảng vườn rộng lối đi lớn chạy đến xa tít mới có một dãy nhà
ngang song song với bên này, cuối dãy là một khu rào xi-măng riêng biệt. Hỗ trở
xuống trong bộ blouse trắng bệ vệ như một bác sĩ, hai mắt thâm quầng mệt mỏi.
Liêm hỏi thăm bệnh tình của vợ Hỗ, chị bị xảy thai. Hỗ rất buồn vì mất đứa con,
gần bốn mươi tuổi anh cần một đứa con hơn bao giờ hết. Liêm trả nhà cho Hỗ lên
phố chơi. Thành phố Hà nội vắng, cổ kính. Vẻ tưng bừng rực rỡ của những ngày cũ
vẫn mang trong ấn tượng bị xóa nhòa, so với Sài-gòn Hà-nội như một thành phố
nhỏ. Cửa hiệu buôn bán chưa mở, Liêm đi trên vỉa hè nhận ra bộ quần áo của mình
quá cũ giữa những người dạo phố. Không mục đích, Liêm đi loanh quanh trong các
phố lớn nhìn ngắm thiên hạ ăn Tết trong nhà và ngoài đường, không có một ý niệm
rõ rệt nào về sinh hoạt hàng ngày. Mọi người đều có vẻ nhàn nhã, phong lưu và
vô tư. Liêm mua vé vào xem chợ phiên bên bờ Hồ, đi đi lại lại hai ba vòng trước
các gian hàng trải dài từ nhà Thủy Tạ đến góc phố Trường-thi. Mỏi chân Liêm
muốn vào ngồi nghỉ trong một quán giải khát nhưng không còn bàn trống và không
thể ngồi chung bàn như ở Sài-gòn. Lúc trở về, Liêm đi tàu điện Kim-liên và phải
đi bộ mất một quãng dài mới về đến nhà thương. Buổi trưa Hỗ và Liêm lại ăn bánh
trưng trừ cơm, cả buổi chiều Liêm được ngủ một mình ở nhà. Tối khi Hỗ đã lên
phòng trực, Liêm dạo quanh trong khu bệnh viện trên những lối âm u không nghe
tiếng động. Những khung cửa sổ đều thắp sáng trống trải. Trên không trung vọng
tiếng phi cơ ầm ì và súng đại bác nổ thật xa. Một lúc đứng dưới một gốc cây,
Liêm nghe tiếng rên la thảm thiết trên lầu cao vang trong một phòng rộng, rồi
tắt biến, bộ mặt nhà thương cũng chẳng thấy náo động hơn chút nào. Trở lại dãy
nhà ở, bàn bất bên cạnh đông hơn đêm trước, gần như hàng xóm đều sang tụ họp ở
đây. Liêm đứng ngoài lắng nghe những câu đùa cợt trêu chọc lẫn nhau trong không
khí đầm ấm, tự nhủ: mình về đây ích lợi gì? Cuộc đời người ta không phải mỗi
lúc đều có thể bắt đầu trở lại. Dù thế nào đáng lẽ cũng phải tiếp tục... Ngày
mùng ba Hỗ đưa Liêm lên phố, đến thăm nhà một người họ. Liêm ngạc nhiên khi
bước chân vào một gian nhà một từng thông suốt được ngăn chia làm nhiều phần
cho gia đình khác nhau trú ngụ. Cảnh hỗn tạp ầm ĩ luộm thuộm do sự chung đụng
của những nếp sống trái ngược hẳn nhau không thể tưởng tượng. Vẻ tạm bợ bức bối
vây chặt mọi người. Liêm hỏi và được biết phần lớn nhà ở Hà-nội đều chịu chung
cảnh như thế, có một gian nhà riêng là một mơ ước viển vông. Chiến tranh đã lùa
về thành phố ngày một thêm đông số người hồi cư. Gia đình ông bác Hỗ cũng mới
từ Vĩnh yên xuống cách mấy tháng, may mắn lắm mới kiếm được một khoảnh chừng
mười thước vuông làm chỗ tá túc cho năm người vừa lớn vừa nhỏ. Mặt trận ngày
càng mở lớn dữ dội, nhà quê không còn là vùng ẩn trú như ngày trước nữa. Chỉ
còn những thành phố và thành phố chỉ còn Hà-nội là dễ thở. Nỗi sợ hãi lo âu ghi
rõ trên nét mặt những người trong gia đình cuộc sống tạm bợ này không thể kéo
dài hết năm này qua năm khác được. Không thể lìa bỏ cái khung cảnh thân quen
mấy chục năm để dựng một đời sống mới trong thành phố xa lạ này. Hỗ nói:
— Nhưng làm
thế nào được. Về quê chết cả nút hay sao. Ở đâu quen đấy. Đến sang Tây tôi còn
sống được nữa là mới ở Hà-nội. Cứ hãy lo cho yên ngày nào hay ngày nấy. Tính
sau.
Ông bác thở
dài, hai vợ chồng người con bó gối nhìn bố, hai đứa con nhỏ ngồi lê dưới gạch. “Làm
gì”. “Thiếu gì việc, tìm khắc ra. Bác đừng lo. Mình phải như Tây, lúc này là
mỗi người đều phải lo tìm lấy việc mà làm, không ai nuôi ai nữa”. Rời khỏi gian
nhà, Liêm dễ chịu nhẹ nhõm cả người và bắt đầu nhìn qua cửa những gian nhà bên
đường bằng cặp mắt khác. Liêm nói với Hỗ: “Ở ngoài này khổ hơn Sài-gòn nhiều
quá”. Ngày mùng năm, vợ Hỗ về nhà, chị vẫn còn phải dưỡng bệnh, bắt buộc nằm
trên giường ít đi lại. Chị trẻ hơn chồng ít nhất là mười tuổi, gầy gò xanh xao.
Có chị trong nhà, Liêm mất tự nhiên, phải bỏ đi cả ngày. Buổi sáng đi bộ lên
tàu điện vào thành phố, xuống ở đầu hàng Bông và lang thang suốt ngày tìm việc,
làm quen với những tờ báo treo trước phòng Thông-tin, các tòa soạn, ngồi nghỉ
trên các ghế đá quanh bờ Hồ nhìn tháp Rùa rêu ẩm trong gió xuân, xem những
người ngồi câu tôm ven hồ hoặc trên bờ đá ướt sau đền Ngọc Sơn, đứng trên cầu
Thê-húc ngắm xe chạy và người đi sau những hàng cây xanh các phố; buổi trưa ăn
bánh tây vào ngồi ngủ trong vườn hoa Chí Linh hay thềm nhà Băng cao, hay thềm
viện bảo tàng, vào Ấu-trĩ-viên nhìn trẻ con chơi đùa và xế chiều lên tàu điện
trở về. Suốt tháng giêng Liêm lang thang ngoài thành phố, không kiếm được việc.
Vợ Hỗ khỏe dần, vui vẻ, thích chuyện trò tâm sự, thích săn sóc Liêm và Liêm sợ
những chuyện rắc rối. Chị hay than thở anh chồng gàn bướng lúc nào cũng coi chị
là con trẻ quê mùa, thuật lại những ngày con gái ở Vĩnh-yên được anh đồn trưởng
pạc-ti-dăng và một anh lính Tây mê say theo đuổi. Hỗ không hay biết về những ý
nghĩ của vợ, anh vẫn tưởng chị ta khiếp phục mình là kẻ từng trải giang hồ. Một
bữa vợ Hỗ đòi Liêm đưa lên phố, chị ta bảo sẽ giới thiệu với một người quen tìm
việc hộ Liêm. Hỗ bảo: “Chú đi với nhà tôi”. Vợ Hỗ dẫn Liêm xuống chợ Hôm, tìm
một người cùng làng chính chị cũng không nhớ rõ số nhà. Hai người đi quanh hỏi
thăm không ra, Liêm có cảm tưởng người mà vợ Hỗ nói đến chỉ là cái cớ. Chị ta
gọi Liêm bằng chú một cách ngọt ngào, khuyên Liêm không nên vội chán nản rồi rủ
Liêm vào một hiệu giải khát bên đường nghỉ chân. Liêm kiếm cách tháo lui, nói
mình phải đến một người quen khác có hẹn trước nhưng chị ta nằng nặc bắt Liêm
phải cùng đi và đưa về đến nhà. Chưa khi nào Liêm kinh hãi sự táo bạo của đàn
bà như lúc ấy, vợ Hỗ nắm lấy cánh tay Liêm đi trên hè, cười nói luôn miệng
không một chút e dè ngượng ngập. Liêm nghĩ: sau buổi này, không thể ở lại trong
nhà Hỗ và không biết mình sẽ đi đến đâu. Người đàn bà dường như không đếm xỉa
đến thái độ lảng tránh, khó chịu của Liêm. Mặt chị ửng đỏ che khuất màu da còn
xanh, mắt ướp lấp lánh, hơi thở cồn cào trên ngực áo, môi hé mở một hàm răng
đen bóng, tóc rối lòa xòa trên vừng trán lấm tấm mồ hôi. Liêm rùng mình nghĩ
nếu chỉ có một mình với chị trong nhà lúc này... Đưa được vợ Hỗ về nhà, Liêm
bàng hoàng như thoát nạn nhưng nhìn vào mắt chị ta Liêm biết người đàn bà chưa
tỉnh, cặp mắt chị nheo lại tình tứ coi như Liêm đã thành đồng lõa. Trong bữa
cơm chị ta nói với chồng: “Không gặp anh ấy ở nhà. Mai lại phải đi nữa. Thật là
mất công quá”. Buổi chiều Hỗ đi làm, Liêm cũng bỏ đi, vòng vào lối đường đất
bụi sang bên chợ Bạch-mai, không biết mình phải làm thế nào để thoát khỏi tình
thế khó xử. Con đường ngoại ô đông đúc, hai dãy nhà lụp xụp bẩn thỉu dẫn đến
một ngôi chợ nửa quê nửa tỉnh với ga cuối của con tàu điện chạy suốt lên đến
Bưởi. Xe cộ đủ loại chen chúc trên một đoạn đường hẹp lẫn lộn với người gồng
gánh qua lại, con đường tàu lồi cao trên mặt đất như là một chướng ngại của cả
một bên hàng phố trước chợ. Bọn lính Tây đen lang thang bên đường hoặc chui rúc
vào trong các quán lá thấp với bọn gái trang điểm lòe loẹt chướng mắt. Liêm leo
lên ngồi trên tàu điện đợi được đưa trở lên phố. Đôi giày bám bụi vàng khè, tay
chân nhờm nháp, đầu óc trống rỗng quay tít. Tại sao tôi lại về đây? Không có gì
ràng buộc tôi ở nơi này; Mẹ tôi, em tôi nếu còn sống cũng coi như tôi đã mất
tích, đã chết từ hơn mười năm nay. Tôi đã thành một người khác với một đời sống
khác. Liêm bỏ xuống chỗ tàu tránh nhau gần rạp Majestic, sang đường vào xem tranh
ảnh dán trên tường, hành lang rạp chớp bóng mát mẻ thơm tho, xin một tờ chương
trình ở ghi-xê và đứng đọc không bỏ sót một chữ. Liêm ra ngồi trên ghế đá, quay
lưng vào toà Thị-chính, nhìn buổi chiều trên hồ Gươm. Ánh sáng trống trải bị
bao giữa màu xanh của đám cây ven hồ và mặt nước, sự im lặng mơ màng trên mặt
hồ bị vây giữa một vòng phố náo nhiệt chuyển động. Liêm nhớ những ngày đi lại
trong Sài-gòn-Chợ-lớn rộng rãi đông đúc gấp bội nhưng chưa khi nào bị bơ vơ lạc
lõng, bất cứ chỗ nào cũng có thể kiếm được một chỗ ghé chân. Những người qua
lại trước mặt, sau lưng không nhìn ngó chú ý đến những người ngồi ngây trên
cùng một chiếc ghế không trao đổi với nhau một lời. Liêm liếc nhìn người đàn
ông, đầu cắt ngắn, quần áo cũ nhàu, chân đi dép cao su cáu ghét vừa ngồi xuống
ở đầu ghế, vẻ mệt mỏi chán chường. Liêm tìm thuốc lá hút, hỏi xin lửa, mời
thuốc người đàn ông, bắt chuyện làm quen. Người đàn ông nói giọng Nghệ-tĩnh khó
nghe, anh ta ở khu Tư trốn vào bị giữ ở Công-an sáu tháng, mới chỉ được phóng
thích nhân dịp Tết Nguyên đán vừa qua và cũng đang thất nghiệp. Liêm vẫn có
nhiều thiện cảm với dân Nghệ, những người cần cù kỹ lưỡng trong công việc, khắc
khổ cứng rắn trong tình cảm, kiên nhẫn dẻo dai trong tranh đấu, thứ dân sinh ra
đã có máu cách mạng chứ không phải làm loạn. Trông anh ta còn ngơ ngác lạc lõng
hơn cả mình và Liêm hài lòng với ý nghĩ ấy. Lúc chia tay, Liêm hẹn với người
bạn mới sáng hôm sau gặp lại tại ghế đá đã ngồi, và trở về nhà Hỗ trên chuyến
tàu điện cuối cùng. Buổi tối Liêm trốn chạm mặt với vợ Hỗ, đi dạo hàng giờ
trong vườn nhà thương, nghe nhen nhúm những hy vọng mới mẻ kỳ lạ. Có được một
người bạn mới, Liêm nhìn trước những buổi lê gót trên vỉa hè phố xá dễ dàng
hứng thú hơn. Hỗ hỏi: “Ngày mai chú lại đi với nhà tôi chứ”. Liêm vội đáp: “Khỏi
làm phiền chị. Tôi đã có một nơi mai người ta hẹn đến gặp”. Vợ Hỗ bảo: “Thì chú
cứ đi với tôi. Bắt cá hai ba bốn tay cho chắc.” “Thôi, mất công chị. Để lúc nào
tôi hỏng công việc này, tôi sẽ phải nhờ chị.” Vợ
Hỗ tỏ thái độ không hài lòng và Liêm nhẹ nhõm. Ngày hôm sau Liêm lên phố rất
sớm, đi thẳng đến nơi hẹn như đến một nơi quan trọng, ngồi trên ghế đá một mình
đợi. Buổi sáng mùa xuân mát rượi dịu dàng. Người bạn mới đến, rủ Liêm xuống
phòng Thông-tin đọc báo. Trong một tờ báo cũ đến cả tuần lễ Liêm đọc được lời
rao cần thợ xếp chữ. Ra khỏi phòng Thông-tin; Liêm bảo: “May ra tôi có việc.
Tôi phải đi ngay” và hỏi tên người bạn, hẹn chỗ gặp lại. Anh ta tên là Khôi và
hẹn buổi trưa anh ăn ở dưới trại Tế Bần, đầu hàng Bột. Liêm nhảy tàu điện,
xuống chợ Hôm tìm đến địa chỉ đăng cần thợ. Đó là một tòa báo, đặt trong ga-ra
một biệt thự, phần ngoài kê hai bàn viết, phần trong là chỗ xếp chữ và đặt một
máy in nhỏ. Anh xếp ti-pô, thử nghề Liêm và nhận vào ê-kíp, lương theo lối chấm
công: “Nếu báo ra đều đặn không hết tiền hay không bị đóng cửa thì lương anh
một tháng khoảng chín trăm đến một ngàn. Chủ nhật không nghỉ, báo ra cả bảy
ngày. Anh nhận không? Bao giờ anh đến làm?” Liêm hẹn ngày hôm sau. Ra khỏi tòa
báo, Liêm không biết mình phải đi đâu nữa. Vẫn còn một vấn đề phải giải quyết
là tìm một chỗ ở, tránh những chuyện phiền phức với vợ Hỗ. Liêm nghĩ có thể
điều đình về ở chung với Khôi.
Mười hai giờ
trưa Liêm đến nhà Tế Bần. Ngoài trời nắng sáng nhưng vẫn còn mát. Bước chân vào
phòng ăn, Liêm choáng váng mặt mũi mất vài giây vì mùi hơi người bẩn thỉu hôi
thối lẫn lộn với mùi tanh tưởi lâu ngày của thức ăn vãi đổ đóng thành mùn trên
gạch và gỗ. Phần đông thực khách là hành khất rách rưới ghẻ lở, một số phu xe
và lao công ăn mặc tương đối lành lặn hơn, tất cả đều ngồi dưới đất hai bên
những chiếc bàn dài thấp đến ngang bụng. Khôi ngồi tận mãi góc trong, Liêm phải
đi len giữa hai hàng lưng người hở những mảng da cháy xám xịt như màu thức ăn
trong các bát đĩa tiến vào. Khôi hỏi: “Được chưa?” Liêm gật đầu, Khôi nhích
người nhường chỗ cho Liêm. Người bên cạnh Khôi là một lão hành khất, cánh tay
chóc loét lèm nhèm màu thuốc đỏ ruồi bâu không thèm đuổi, cũng ngồi lui lại sau
để mở rộng chỗ trống, lão cầm đũa và bát trên một tay, còn một tay kéo theo sát
bên mình chiếc bị và cây gậy như sợ bị đánh cắp. Cơm và thức ăn đều nguội tanh,
khó nuốt hơn cả cơm trong bót Catinat. Ở nhà Tế Bần ra, Khôi đưa Liêm sang
Văn-miếu, ngả lưng ngoài thềm nhà thờ lát gạch Bát-tràng sạch sẽ và mát mẻ.
Dưới sân cỏ, gần hàng mả đá xây hình mai rùa với những tấm bia to dựng đứng,
hai anh học sinh chăm chỉ đi đi lại lại giữa mấy gốc cây học bài. Khôi cũng
không có nhà, tối đến anh về ngủ trong trại Tế Bần. Anh nói anh sẽ đi làm nhưng
chưa biết làm công việc gì, chắc chắn không thể vào công sở vì hồ sơ công an.
Anh không có nghề chuyên môn, nếu có thể gọi được là nghề thì anh là nghề cán
bộ. Anh quen đi họp, thảo luận, hoạt động, vận động dân chúng. Anh vỡ mộng vì
thực tế. “Kháng chiến không còn nữa chỉ còn Cộng-sản. Tôi đã là đảng viên dự bị
sắp được tuyên thệ thì bỏ trốn về”. Anh chỉ có thể làm cán bộ nhưng về đây làm
cán bộ cho ai. Liêm nghe, hai tay khoanh đỡ gáy, ngửa mặt nhìn kèo cột và mái
ngói có những tiếng chim kêu rúc vỗ cánh nấp ở trong. Sau cùng khi Khôi lặng im
mơ màng như ngủ, Liêm nói: “Nhưng cũng phải kiếm việc gì làm mà sống chứ”. “Tôi
không biết làm gì cả. Chữ không hay, nghề không có. Ai cần đến tôi? Có chỗ cần
thì tôi không làm được vì người ta không cho tôi thấy lý tưởng”. Liêm nằm lim
dim không thể thốt một lời khuyên nào nữa. Một anh học sinh mỏi chân đến ngồi ở
đầu thềm xa, mắt vẫn dán vào quyển vở, và thiếp ngủ ngon lành lúc nào không
biết. Mở mắt Liêm nhìn thấy dãy cửa gỗ đỏ đóng kín, phần trên có song khít
trông qua vào trong tối om. Liêm bảo với Khôi mai mình đi làm, định cùng ở
chung với Khôi nhưng như thế không thành, hỏi nếu muốn gặp lại thì tìm ở đâu,
để lúc nào có chỗ ở riêng rủ Khôi về ở chung cho vui; Khôi bảo tìm thì xuống Tế
Bần. Buổi chiều về gặp mặt vợ Hỗ khó đăm đăm không nói lời nào. Tối Hỗ phải
trực. Trong bữa cơm Liêm báo tin đã tìm được việc, Hỗ vui mừng bảo vợ phải làm
gà ăn khao chú Liêm, vợ Hỗ không nói gì cả. Khi Hỗ đã đi khỏi, Liêm sửa soạn ra
ngoài sân nhà thương, vợ Hỗ đón hỏi: “Chú ghét tôi lắm phải không?” Liêm chối: “Không,
tôi chịu ơn anh chị. Khi nào tôi lại thế. Không có anh chị tôi chết đói từ ngày
mới ra Hà-nội kia”. Vợ Hỗ ngồi xuống ghế và bật khóc thút thít một cách mau
chóng. Liêm bối rối ngồi theo xuống ghế đối diện, trông chừng ra cửa sợ người
vào bất ngờ. “Có phải chú có việc và chú sẽ đi ở chỗ khác không?” “Vâng. Tôi
chẳng muốn làm phiền mãi anh chị. Tôi định khi nào tìm được chỗ ở tôi sẽ thưa
với anh chị”. “Làm phiền tôi. Từ ngày chú về ở, tôi cảm thấy đời tôi đỡ buồn
tẻ, đỡ khổ hơn. Chú không biết hay sao?” Liêm nhấp nhỏm đứng lên, không biết
phải ăn nói thế nào. Vợ Hỗ cúi gầm mặt, kể lể nho nhỏ những nỗi thống khổ của
kiếp làm vợ: “... Tôi xảy thai là vì bị anh ấy đánh. Chú không biết…” Liêm
không nói gì cả, đi ra đứng tựa cửa. Trên một khung cửa sổ cao, một người
nghiêng đầu nhìn xuống sân. Mấy tối nay tiếng súng đại bác nổ nghe gần hơn,
tiếng động cơ không rõ của phi cơ cất cánh ở phi trường hay xe hơi chạy ngoài
đường cái. Khi Liêm liếc nhìn phía sau, vợ Hỗ đã vào trong buồng nằm nín tiếng
từ lúc nào. Liêm khép cửa bước vào trong bóng tối, đi theo những lối đã thuộc
lòng. Sài-gòn đã quá xa, Hạnh cũng quá xa. Mai tôi bắt đầu đi làm và bắt đầu
một đoạn sống khác chưa biết dài đến bao giờ. Có những gì thay đổi? Gió từ
những bãi ruộng xa thổi vào thơm mát. Tôi cũng vẫn bấp bênh như lúc mới lớn lên
không rễ buộc. Sẽ đi ở chỗ khác và chưa biết đến dịp nào có phương tiện trở lại
Sài- gòn. Liêm trở về nhà, đèn ngoài vẫn thắp sáng nguyên, dón dén dọn chỗ ngủ
của mình ở đi-văng buồng ngoài rồi tắt đèn. Nửa đêm Liêm hốt hoảng choàng thức
dậy thấy mình bị ôm ghì bởi người khác. Một nửa mặt đàn bà đè chặt lên mặt, mái
tóc dài sổ rơi nặng trên vai, hai cánh tay ôm vòng giữ đầu, hai chiếc chân dài
quặp giữ lấy chân; cả tấm thân cựa quậy rẫy rụa chậm chạp với tiếng rít âm ỉ
sau hàm răng nghiến, hơi thở nóng như người sốt. Liêm ngộp hơi, cố cựa mình
lách ra khỏi sự đè ép nhưng không thoát. Liêm tỉnh trí lại, nằm thẳng, nghe một
bàn tay với những móng dài vuốt ve xxxxxx run rẩy và Liêm thở, rồi thấy tay chân mình cũng bắt đầu
cử động đáp ứng mỗi lúc một thêm tàn bạo cho đến lúc Liêm lật mình nằm lên...
Không phải là một giấc mơ, người đàn bà vẫn còn nằm gối ngang trên ngực, tóc
phủ cả lên miệng, bàn tay mềm nhũn vẫn ấp trên xxxxxx nhớp nháp, há miệng thở. Mãi đến gần sáng,
khi xe đã chạy ngoài đường cái, vợ Hỗ mới chịu trở vào giường trong. Liêm xuống
nhà rửa mặt, gặp vợ Hỗ đã ngồi bên bếp đun nước. Chị ta thản nhiên nhìn Liêm
cười lẳng lơ nhưng không nói một lời nào. Liêm đi làm trước khi Hỗ về đến nhà.
Buổi sáng hơi lạnh ủ kín những ý nghĩ. Không còn cách nào khác hơn, bỏ đi càng
sớm càng tốt. Liêm đi vòng sang chợ Bạch-mai để lên tàu điện, đến nhà in sớm
nhất và phải đứng ngoài cửa. Anh xếp ti-pô hài lòng, đưa Liêm vào giới thiệu
với những người trong ê-kíp. Ông cụ San tóc bạc trắng, đeo kính lão; Tuất người
trông vạm vỡ lực sĩ; Hải trắng trẻo nho nhã; thằng Long láu táu khoảng chừng
mười sáu mười bẩy. “Còn tôi là Ngọc”, anh tự giới thiệu. “Làm ăn tử tế thì bọn
này cho nhập đảng”. Cả bọn phá lên cười và ông cụ San đùa: “Đằng ấy đừng đi
theo bọn nó mà hư”. Buổi trưa Liêm theo thằng Long ra chợ Hôm ăn cơm và hỏi nó
xem có biết nhà cho thuê hay chỗ trọ giới thiệu, Long bảo về hỏi Hải, Hải hứa
sẽ để ý giúp. Chiều khi Liêm từ chợ Bạch-mai đi bộ về đến nhà thương trời đã
tối. Cơm đã dọn, vợ chồng Hỗ ngồi đợi, mâm cơm có món gà quay khao Liêm. Hỗ
uống rượu, cười đùa vui vẻ, đề nghị Liêm lĩnh lương nên tìm mua cái xe đạp đi
làm cho tiện, tháng này chưa phải giả tiền cơm vội. Vợ Hỗ gắp món ăn tiếp Liêm
một cách tự nhiên: “Chú ăn đi. Làm khách thế”. Mấy hôm sau, Liêm lại nhắc Hải ý
định tìm chỗ ở của mình và Hải bảo nếu Liêm thích có thể về ở tạm nhà Hải ở
trong xóm Chùa Vua. Buổi trưa Liêm theo Hải về nhà cho biết, gia đình Hải chỉ
có hai mẹ con ở trong một gian buồng nhỏ cạnh bếp một ngôi nhà gần bãi đất
trống cỏ hoang rác rưởi và một ao rau muống; bà mẹ bán bún riêu bánh đúc, bánh
khoái, chè đậu đen tùy theo mùa, Hải ngoài giờ đi làm tối đạp xe theo học lớp
tối của Hội Phụ-huynh Học-sinh. Hải đề nghị Liêm sẽ ngủ chung luôn với mình
trên bộ phản rộng, bà mẹ Hải ngủ trên một chiếc trống nhỏ gần ngay cửa vào. Tối
hôm ấy Liêm báo với Hỗ ý định đổi chỗ ở của mình, nại cớ đi làm quá bất tiện.
Hỗ vui vẻ bảo: “Ngày nghỉ xuống đây chơi đổi không khí”. Vợ Hỗ không tỏ thái độ
nào, chỉ cười tủm tỉm, trái lại sáng hôm sau còn nằng nặc đòi sách va-ly hộ cho
Liêm ra cổng nhà đón xe xích-lô. Chị ta hỏi: “Chú ở một mình?” “Không, tôi ở
nhà một người bạn làm cùng ở nhà in”. Liêm mang va-ly đến nhà in, trưa mang về
nhà Hải. Bà mẹ Hải thổi cơm cho cả Liêm ăn, mỗi tháng Liêm đưa năm trăm cả tiền
ăn ở. Những ngày đầu tiên mới đến, buổi tối khi Hải đi học, Liêm ngồi nói
chuyện với bà cụ. Bố Hải là Việt-nam Quốc-dân-đảng bị thủ tiêu năm 45, các anh
Hải đều còn ở hậu phương theo kháng chiến, người chị gái duy nhất của Hải mắc
bệnh lao mất năm ngoái mới có hai mươi hai tuổi, Hải mười tám. Bà cụ kể chuyện
với giọng thầm thầm ẩn nhẫn, không than thở không oán hận, mắt tối mờ trong
những đau đớn hành hạ của số mệnh trời đất, giữa tiếng ếch nhái kêu om ngoài
bãi, tiếng huyên náo của hàng đoàn trẻ nít còn reo hò chạy đuổi tít trước đền
thờ Hai Bà và bóng tối mù mịt của xóm không điện. Hải trở về, bóp chuông xe
chạy vào sân, nhiều hôm đến lúc ấy mới ăn cơm, thắp ngọn đèn dầu lớn đặt lên
phản, kê chiếc ghế đẩu đã cưa chân ngồi ngay lối cửa đón gió lấy phản làm bàn
học. Liêm nằm trên phản nghe tiếng động của nhà quê ở bên ngoài, đập muỗi,
thỉnh thoảng đáp một câu hỏi của Hải hay của bà cụ. Bốn năm giờ sáng bà cụ đã
lục đục dậy nấu bún hoặc làm bánh và Hải theo mẹ giúp một tay mang theo quyển
sách ngồi đọc bên bếp lửa lớn. Bà cụ nói: Mày học vừa vừa chứ, không thì lao
sớm. Tao già rồi không sao. Cuối tháng bà cụ nhất định chỉ nhận bốn trăm của
Liêm.
Một buổi
sáng chủ nhật rảnh rỗi, Liêm xuống nhà thương Bạch-mai thăm Hỗ. Hỗ đi vắng và
vợ Hỗ nói: “Tôi tưởng chú không thèm về chơi nữa”. Vợ Hỗ đang thổi cơm, giữ
Liêm ở lại đợi chồng cùng về ăn cơm. Hơn mười hai giờ Hỗ vẫn chưa về, vợ Hỗ dọn
cơm ra và bảo cứ ăn trước để phần cho Hỗ. Cơm xong Liêm muốn về nhưng vợ Hỗ giữ
lại bảo đợi thế nào Hỗ cũng phải về, và dẹp giường cho Liêm nghỉ lưng. Lúc ấy
đầu mùa hè, trưa nắng gắt, Liêm nghĩ ngại quãng đường bụi bậm. Rửa bát xong, vợ
Hỗ lên đóng cửa ngoài lại che ánh nắng chiếu xiên vào đến đi-văng Liêm nằm và
bảo: “Chú vào trong nằm cho mát. Nhà gạch hoa tôi đã lau sạch”. Liêm đi vào sau
bếp xối nước rửa mặt, trở ra thấy người đàn bà xổ tóc nằm nghiêng trên gạch
nhìn nói: “Chú đóng hộ tôi cửa sổ với cửa ngang”. Buồng tối xầm lại như đầu óc
Liêm và Liêm bước chập choạng tới chỗ thân người đàn bà nằm vươn dài trên một
nền nhẵn trơn không mảy bụi. Người đàn bà lần này không hung dữ trâng tráo như
trong đêm, trái lại đầm thắm dịu dàng khuất phục một cách êm ái. Hỗ không về,
đến tối mới về. Liêm không nói gì, nhưng vẫn nằm lại để mặc cho bàn tay người
đàn bà vầy nghịch xxxxx .
Khi Liêm về đến nhà in đã trễ giờ, Ngọc hỏi: “Anh đi đâu thế?” Liêm nói thác vì
gặp người thân cũ của gia đình. Đầu óc hoang mang, Liêm nghĩ: mình cần, mình
cần... Những đêm mùa hè dài, ngột ngạt và nhầy nhụa. Tấm phản dội nước bị hút
khô ngay trong năm phút. Bà mẹ Hải quạt phành phạch suốt đêm. Ánh đèn của Hải
ngồi học loá mắt và nóng nực. Ở bên ngoài tiếng chân bước nặng nề tiếng xì sồ
của lính Tây ra vào quanh xóm kiếm gái. Trong giờ làm việc mọi người đều cởi
trần kể cả anh cò sửa bài, chỉ trừ ông chủ báo người xương sẩu lúc nào cũng cổ cồn cà-vạt, lưng áo sơ-mi ướt như nhúng
nước. Một buổi sáng đang làm việc, Liêm nghe anh thấy cò gọi có người nhà hỏi
thăm. Liêm vẫn còn cầm trên tay cái dẻ chùi chữ đi ra thấy vợ Hỗ đứng tận ngoài
cổng biệt thự. Mắt chị đỏ hoe, mặt hốt hoảng, bảo: “Anh Hỗ bị bắt rồi”. “Tại
sao thế?” “Tôi cũng không biết”. Liêm đứng ngẩn trên hè nhìn xuống chiếc rãnh
đang rỉ chảy nước. Vợ Hỗ bảo bây giờ đi lên Công an hỏi thăm tin tức và hẹn
trưa sẽ quay lại gặp Liêm. Vợ Hỗ cầm
khăn tay lau một vết nhọ dầu trên ngực Liêm một cách âu yếm. Liêm không còn thể
hiểu nổi mình, khi Hải hỏi: Ai đấy? Liêm đáp: Người nhà bị bắt. Trưa tôi không
về ăn cơm. Trưa vợ Hỗ đòi Liêm đưa vào hiệu phở, nói cho biết chưa được tin tức
gì rõ rệt, chiều chị sẽ trở lại nữa, rồi săn hỏi về công việc và chỗ ở của Liêm
và bảo: “Chú đừng làm gì bậy. Chú mà bị bắt nữa là khổ tôi”. Trong hai tiếng
đồng hồ, Liêm phải dẫn vợ Hỗ lang thang trong những phố rợp, thỉnh thoảng ngồi
lại trên những thềm nhà cửa đóng. Vợ Hỗ băn khoăn không hiểu lý do bị bắt của
chồng. Sáng hôm qua anh lên phố không thấy về và sáng nay có người xuống cho
hay tin anh bị bắt. Đến chiều vợ Hỗ vẫn đón Liêm ở đầu ngã tư gần nhà in.
Thoáng nhìn thấy bóng, Liêm bảo Hải: Tối nay tôi không về nhà, cậu nói với bà
cụ cho tôi. Và Liêm đi tới, trong khi vợ Hỗ quay lưng lại làm như không chú ý.
Chị nói: “Vẫn chưa có tin gì cả”. “Bây giờ chị về đâu?” Không có tiếng đáp,
Liêm vẫy một chiếc xích lô và kéo tay người đàn bà lên. Mùi hôi nhễ nhại trên
tóc cổ lưng, hơi nóng như lửa chiều. Phải có một chỗ để nằm, một chỗ kín đáo để
nằm. Liêm hỏi: “Đi đâu?” “Đâu cũng được”.
No comments:
Post a Comment