Ung thư của Thanh Tâm Tuyền đăng nhiều kỳ trên tạp chí Văn, bắt đầu từ số 31 (ra ngày 1 tháng 4 năm 1965). Đến số 62 (ra ngày 15 tháng 7 năm 1966) thì dừng lại ở “Thôi về đi, tôi buồn ngủ quá”.
Số 63 và 64, tạp chí Văn gửi lời cáo lỗi chưa thể đăng tiếp Ung thư, do tác giả bận đi xa, khi đi về lại ốm bệnh. Sang số 65 thì thông báo rằng:
Trước hết, chúng tôi lấy tiếc phải loan báo quý bạn rõ là nhà văn Thanh-Tâm Tuyền vẫn còn đau nặng. Vì lý do sức khỏe, anh không thể cầm bút, không những chỉ ngưng viết truyện dài UNG-THƯ cho Văn, anh còn ngưng viết cho tất cả các báo khác mà anh đang cộng tác. Chúng tôi rất mong sẽ được bạn đọc thông cảm với hoàn cảnh đặc biệt này mà vui lòng lượng thứ.
Đến số 66, mục tin vắn có lời Thanh Tâm Tuyền cám ơn bạn đọc:
Nhà văn Thanh-Tâm Tuyền, tác giả Ung-thư, có nhờ Thư- Trung tôi chuyển lời cám ơn những bạn đọc đã gửi thư về thăm hỏi anh.
Hiện nay anh vẫn còn đau, và anh lo ngại sẽ phải chọn lấy giải pháp cuối cùng: vào nhà thương nằm dưỡng bệnh.
Anh đã được giải ngũ cách đây ít bữa và vẫn chưa thể đi dạy học, mặc dầu có nhiều trường tới mời anh.
Được hỏi về nguyện vọng, anh ngỏ ý mong ước sao chóng lành bệnh để có thể viết trở lại, để gặp gỡ lại bạn đọc—những người thật tình quý yêu anh.
[...]
Từ số 31 đến số 62, tổng cộng có 25 kỳ Ung thư được đăng trên Văn, sau đó không còn kỳ nào nữa.
Số Văn đầu tiên đăng Ung thư có chú thích:
Chương 1 của thiên truyện nầy, trước đây đã đăng một phần trên tập san Bách-khoa. Tuy nhiên, xin lưu ý những bạn đã đọc cũng nên đọc lại vì ấn bản nấy có nhiều đoạn mà trước đây tác giả đã không thể cho in.
Không chỉ chương I, mà cả phần thứ nhất của Ung thư đã được đăng trên Bách khoa các số 138, 139, 140 (tháng 10, 11 năm 1962), dưới tên Nỗi chết không rời, ghi năm viết: 1960.
Khi đăng lại trên Văn, Ung thư đã được sửa chữa khá nhiều. Đoạn đầu tiên của bản Bách khoa:
Giữa vùng nước đục ngầu thành phố Nam-Định nghiêng chìm dần xuống, bấp bênh sắp sửa rời rã. Những khóm cây thấp thoáng. Những mảnh tường đổ nát bẩn thỉu. Đường phố giao nhau vô nghĩa như những nét gạch nguệch ngoạc. Giãy nóc xám buồn tẻ của nhà máy sợi. Giòng sông đựng những con thuyền nghèo khổ. Nóc nhà thờ màu đá cũ. Khu đồn riêng biệt ở phía nam tỉnh lỵ chòi canh xùm xụp, khi lên cao trông xuống mọi vật xếp đặt không lý do. Trong cái thành phố ấy Thạch đã sống non một năm mà không hề biết đến nó.
Một đoạn khác trong chương II bản Bách khoa sẽ cho biết mốc thời gian của đoạn đầu Ung thư - Hà Nội năm 1951:
Một đêm cuối mùa thu năm ngoái lúc qua chợ Đồng-Xuân ở những gốc cột đèn lính nằm phục chĩa súng rình mò, trên nóc chợ lợp tôn cũng thấy nấp những bóng đen với những khẩu liên thanh hờm sẵn, Liên níu lấy tay Thạch run sợ, trời vẫn còn mưa ngâu rải rác, hai đứa phải đi ra giữa đường tàu, đó là năm 50, quân đội V.M. tuyên truyền mở cuộc tổng tấn công tiến về thủ đô. Bây giờ thì Hà-Nội đã yên tịnh và đang quên dần những giờ phút khắc khoải ấy.
Những đoạn của Ung thư đã được Thanh Tâm Tuyền trích đăng từ trước nữa: Những người đã chết đều có thực đăng trên tạp chí Sáng tạo số 24 (tháng 9 năm 1958); Buổi sáng chủ nhật đăng trên tạp chí Hiện đại số 2 (tháng 5 năm 1960).
NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THỰC
I
Đồng sinh ngày 8 tháng 7 năm 1931. Năm 1945 Đồng bắt đầu lên ban Trung học, theo học lớp đệ nhất niên cấp phổ thông tại trường Gia-Long Hà-nội. Bây giờ ngôi trường ấy đã chia thành nhiều gian cho thuê làm nhà ở. Mỗi lần qua đấy, Đồng vẫn liếc nhìn vào cái ngõ khuất khúc với cái cổng trường gồm hai cánh cửa gỗ đỏ đã phai màu nín lặng. Hình như tuổi ngây thơ của Đồng còn ở sau hai cánh cửa ấy, cái sân đất dơ bẩn về mùa mưa, cái hầm trú ẩn bằng xi-măng bỏ hoang nơi Đồng chơi đùa. Năm sau Đồng học lớp đệ nhị niên được hai tháng thì phải theo gia đình tản cư về quê ngoại ở Hà-đông. Cuộc chiến tranh vào cuối năm đưa đẩy gia đình Đồng lên tận miền rừng núi Phú-thọ. Những ngày đi bộ hàng vài chục cây số trên những bờ ruộng mấp mô, những khúc dốc trải đá qua những cơn mưa nắng thất thường dưới những bầu trời cháy nắng hay mù sương chỉ có thể khiến bà mẹ già của Đồng phải than thân trách phận mà thôi, còn đối với người con trai tuổi vừa mười lăm mười sáu thì là một cuộc phiêu lưu lãng mạn kỳ thú hơn hẳn sách vở. Đồng sống cực nhọc về vật chất không thể xóa mờ được vẻ thơ mộng của thời gian ấy. Tuổi mới lớn được đặt vào giữa một thế giới mộng tưởng có không gian bát ngát trong thân thể, có những hình bóng anh hùng ngay trước mắt, có lý tưởng để sống trong tầm tay mình. Tất cả cái lãng mạn của tâm hồn gặp dịp được mang tô lên trên mọi đổ vỡ trên mọi thảm khốc. Đến cái chết lúc bấy giờ cũng không còn là bi đát, nó trở thành hào quang của đời người. Cuộc chiến tranh khủng khiếp, đối với kẻ xâm lược là vô lý và hèn hạ, đối với kẻ chống cự là ý nghĩa cao quý của kiếp sống. Sức chịu đựng những đau đớn hành hạ tương đương với đức lớn của bậc thánh, cuộc kháng chiến cũng muốn chứng tỏ điều này.
Rừng núi miền thượng du là khung cảnh cho mối tình thứ nhất của Đồng. Đồng yêu Hà. Hai gia đình cùng tản cư và ngụ chung một nhà. Hà cùng tuổi với Đồng, nhưng con gái có những lúc trông vẫn người lớn hơn con trai. Đó là những khi bộ đội hay thương binh thuyên chuyển qua địa phương mà Hà được cử vào đoàn phụ nữ đón tiếp, hay những đêm diễn kịch thanh niên cán bộ vây quanh giọng hát của Hà—Hà có giọng hát thật hay. Trong những trường hợp ấy Đồng ghen tức bực dọc vì thấy mình còn nhỏ quá. Bởi vậy Đồng chưa bao giờ dám ngỏ một lời với Hà—và nghĩa là chẳng bao giờ nữa. Những phút sung sướng nhất của Đồng là được một mình với Hà, vì lúc đó Hà lại chỉ là một cô gái nhỏ ngây thơ. Hai người theo dân làng đi kiếm củi khô trong rừng hay lên đồi hái chè, khi rảnh rang Đồng mang ứng dụng những bài học về thảo mộc vào thực tế và giảng giải cho Hà nghe hay kể những câu chuyện vui khiến Hà cười ngặt nghẽo. Một buổi chiều hai người ngồi trên tảng đá bên bờ sông. Đồng mang kể Paul et Virginie với Hà. Hà im lặng rất lâu rồi ném những hòn đá nhỏ xuống giòng nước sông Thao đục ngầu. Hà hỏi:
— Ngày sau anh muốn làm gì?
Không suy nghĩ Đồng nói mộng tưởng của mình:
— Yên ổn về Hà-nội tôi sẽ cố học thành tài. Tôi muốn làm bác sĩ, có một căn trại ở thôn quê để trồng cây nuôi súc vật, rảnh rỗi tôi vẽ cảnh vật nơi tôi sống.
Hà không nói gì.
Đồng không bao giờ quên được những buổi tối an nhàn người ta quây quần ở ngoài sân bên đống dạ, Hà cất tiếng hát cho mọi người. Đồng và Hà thường ngồi trên đỉnh cao. Đồng nghĩ Hà hát cho một mình Đồng nghe mà thôi. Có những lúc Đồng thu hết can đảm nhìn xóng vào mắt Hà nhưng chỉ được vài giây. Hà hay hát bài Nhớ người thương binh của Phạm Duy. Đồng ấm ức vì Đồng không phải là thương binh, không phải là anh hùng.
Cuối năm 48 cả hai gia đình cùng hồi cư. Về Hà-nội, đời sống thành thị làm hai người xa cách nhau. Thỉnh thoảng gặp Hà ngoài phố trông vẻ mặt nghiêm trang lãnh đạm và người lớn của bạn, Đồng không muốn hỏi chuyện và cũng chẳng chào. Rồi Hà lấy chồng theo chồng vào Sài-gòn làm ăn. Mối tình thứ nhất âm thầm dụt dè chỉ còn lại những tiếc nhớ dại khờ. Đồng bắt đầu có cảm tưởng cuộc đời vượt khỏi tầm tay.
Sau đó ba năm liền miệt mài với sách vở rút ngắn ban Trung-học vào ba kỳ thi liên tiếp. Xong Tú tài thì Đồng đau ngực phải tạm nghỉ. Trong niên học sửa soạn thi phần thứ nhất, Đồng yêu Phương, cô bạn cùng lớp. Phương cũng có cặp mắt tinh nghịch, giọng nói thanh cao và khổ người mảnh khảnh như Hà. Phương lại có cùng những ước vọng như Đồng. Phương muốn trở thành bác sĩ sống ở thôn quê và được nghe âm nhạc. Mối tình thứ hai cũng chưa kịp ngỏ. Đỗ phần thứ nhất Phương được gia đình gửi sang Pháp. Hôm Phương đi, Đồng đưa tiễn Phương ra sân bay, Phương khóc mắt đỏ hoe—ồ người đàn bà nào chẳng khóc trong bất cứ cuộc chia ly nào—Đồng nắm lấy tay Phương hay Phương nắm lấy tay Đồng? Hay là một cái bắt tay thường tình không biết. Nhưng Đồng bồi hồi và nghe cay ở khóe mắt. Phương nói:
— Phương sẽ viết thư cho anh địa chỉ và anh phải viết thư luôn cho Phương.
Nửa tháng sau Đồng nhận được tấm bưu thiếp của Phương khi vừa đặt chân xuống Paris. Một tháng sau một bức thư. Hai tháng sau, khi bắt đầu nhập học. Và cái hạc bay lên vút tận trời. Trời đất từ nay...
Khi được bác sĩ bảo cho biết mình mắc bệnh phổi, Đồng tưởng chừng tuyệt vọng. Hai mối tình tan vỡ—tại sao không cứ cho là thế?—một thể xác bệnh hoạn, đời sống còn lại của Đồng chẳng còn nghĩa gì. Lúc bấy giờ cuộc chiến tranh chống Pháp đã chuyển từ du kích sang trận địa. Những chiến thắng liên tiếp ở Cao Bắc Lạng dồn quân Pháp xuống đồng bằng và hy vọng tổng phản công về Hà-nội sắp thực hiện nay mai. Đồng thấy mình thừa, vô ích và phi lý. Đồng dọn về Thụy-khê ở với mẹ và em trai nhỏ xa lánh bè bạn chờ chết; trước kia Đồng ở trên nhà người anh mở hiệu xe đạp ở khu chợ Hôm. Đồng có ba đứa bạn thân: Thạch, An và Cảnh. An là con bác sĩ Trần-quang Tân, một ông bác sĩ thích làm chính trị hơn hành nghề, một nhà chính trị “quốc gia”. An học luật. Thạch và Cảnh cả hai đứa gia đình đều còn ở hậu phương phải tự mưu sinh để theo học. Cảnh theo khoa toán học, còn Thạch lận đận mãi với phần thứ hai. Đồng thân với Thạch hơn cả.
Trong một năm vừa qua nghỉ nhà tĩnh dưỡng chữa bệnh Đồng đọc rất nhiều sách. Đồng thường ngồi hàng buổi sau đình Thụy-khê trông ra mặt hồ Tây nước rộng để nghiền ngẫm tư tưởng. Cùng với thể xác đau ốm, cuộc đời như tách lìa khỏi Đồng đứng trên một bờ vực. Thế giới mộng tưởng đã tan vỡ, lý tưởng sống không còn ở trong tầm với. Những giây phút hoang mang chóng mặt vì tương lai ám ảnh thường trực. Đồng không thấy được vị trí của mình ở hiện tại, nói gì đến tương lai. Đồng đã hỏi Thạch:
— Tại sao mình lại đi đến cực tả?
— Không biết.
— Tôi cho là tại mình không tham dự kháng chiến, và mình đọc sách. Cuộc kháng chiến không phải là công trình của thế hệ chúng ta, mà mỗi thế hệ muốn có một công trình độc đáo góp vào lịch sử nên chúng ta muốn vượt trước cuộc kháng chiến bằng cực tả. Ngay cả vấn đề Cộng-sản cũng vậy. Những kẻ đã trói mình bằng hành động vào công trình của họ không bao giờ muốn thay đổi cả. Rồi khi hành động chúng ta cũng như thế.
— Cũng có lẽ. Chúng ta đi tìm ý nghĩa của thế hệ chúng ta, nhưng vấn đề Cộng-sản thì khác.
Thạch ngừng lại để suy nghĩ trước khi tiếp lời:
— Tôi thành thực mà nói chính khi tôi sinh ra đã là Cộng-sản rồi. Bản chất của tôi không thể nào thích hợp được với cái xã hội này. Cứ nói ngay thằng An là bạn thân mà vẫn có lúc tôi không thể chịu nổi—rất tự nhiên, tôi cần nói rõ sự thù hằn hồn nhiên—cái dáng dấp quý phái của nó. Tôi không thể bước chân vào một nơi sang trọng mà không thấy lạc lõng bực dọc, suốt đời tôi chỉ muốn sống chui rúc bẩn thỉu như loài chuột. Tôi là type mà Dostoïewski đã nói: không thể an tâm khi biết còn một người chịu đau khổ trên thế gian. Nhưng cũng chính khởi đi từ cái khát vọng tuyệt đối không tưởng ấy mà tôi lại không thể theo được Cộng-sản. Cái khổ tâm của tôi là tôi phải đứng vào hàng ngũ những người tôi không ưa để chống lại những người đáng lẽ là bạn bè của tôi. Chỉ vì họ thiếu khát vọng tuyệt đối. Tôi khác thằng Cảnh ở chỗ đó.
Đồng nhận rằng Thạch có lý. Người thanh niên trí thức nào chẳng theo đuổi một chân lý vĩnh viễn, chẳng khinh ghét thứ chân lý tạm thời và họ đáng thương biết bao vì chẳng nơi nào muốn dung nạp họ, vì họ là một thứ lương tâm dày vò người ta.
Đêm hôm trước Thạch xuống thăm Đồng báo tin mừng Thạch qua thoát phần thứ hai, An đỗ phần thứ hai cử nhân luật, Cảnh chiếm được chứng chỉ Cơ học thuần lý sau chứng chỉ Vật lý đại cương ở kỳ thứ nhất. Đồng giữ Thạch ngủ lại, hai người nằm chung giường. Đồng ôm chặt lấy Thạch, Đồng yêu Thạch. Nhưng Thạch không thích những cử chỉ thân ái xuống xã. Và cả hai người đều cô độc như nhau. Tình yêu giữa đàn ông không thể biểu diễn được nếu không muốn là kỳ cục bệnh hoạn. Thạch nằm ngửa nhìn lên đỉnh màn nói:
— Tôi biết thằng Cảnh hoạt động trong một tiểu tổ nội thành.
Trong khi ấy Đồng nghĩ Đồng cần được yêu một người, cần một người yêu mình. Đồng không thể chịu đựng sự cô độc như Thạch. Thạch lại nói:
— Tôi muốn được hoạt động.
— Sao?
— Tôi muốn được hoạt động. Tôi khó có thể ngồi yên học hành được nữa.
— Làm gì?
— Chưa biết.
Đồng trở mình buột miệng:
— Tôi muốn được yêu.
— Yêu ai?
— Một người nào đó.
Thạch thở dài chậm chậm nói bằng giọng trung lập:
— Cậu còn sung sướng vì nghĩ được rằng sẽ yêu một người. Tôi nghĩ tôi không thể yêu được ai và cũng chẳng ai thèm yêu tôi.
Sự thực không phải tình cảm đã chết trong lòng Thạch, nhưng cái vỏ cứng của người sống nhiều bằng tư tưởng đã không để lộ được tình cảm ra ngoài, nên Thạch có bộ dạng lạnh lùng ác cảm. Đồng thương Thạch quá và muốn quay ra ôm lấy Thạch nhưng không dám. Đồng nói:
— Phải tôi là con gái tôi lấy anh ngay.
Thạch cười sung sướng.
Buổi sáng tháng chín, thời tiết ở vào giữa mùa thu. Gió ào ào qua cây lá nghe như mưa đổ. Trời đất lên cơn sốt mê sảng. Khí hậu như độc được tiêm vào máu người ta sự bải hoải ngây ngất, cái chết ngấm trong cơ thể không sao cưỡng được. Đồng hơi thấy khó thở khi thức giấc. Thạch đã dậy và đang nói chuyện với mẹ Đồng ở ngoài sân. Bà cụ mời Thạch dọn xuống ở chung với Đồng cho có bạn. Lát sau mẹ Đồng mang vào buồng cho hai người hai cốc sữa nóng với hai cái bánh tây. Ăn điểm tâm xong Đồng đi chân đưa Thạch đến vườn Bách-thảo theo con đường dốc lên Quần-ngựa. Từ trên cao nhìn xuống, Thụy-khê chạy dài với những lùm cây xanh thấp thoáng những nóc nhà kiểu cổ. Xa là mặt hồ Tây bốc khói lạnh. Gió buổi sáng vẫn còn dữ dội làm lạc cả hơi thở của Đồng. Thạch lên xe đạp, Đồng trở về nhà. Đồng đọc hết cuốn Adieu aux armes và ngồi mơ mộng trước cửa sổ nhìn ra vườn. Khóa sĩ quan Nam-định đã ra trường. Trong những người bạn học cùng lớp đã nghe nói có người gặp tai nạn trong khi tập luyện, có người tử trận, có người mất tích, có người đào ngũ... Rồi sẽ đến lượt bọn Đồng. Phải chọn, phải cầm khí giới. Đồng chưa biết mình sẽ định thái độ như thế nào. Đồng bị bệnh và Đồng sẽ thoát khỏi. Nhưng Đồng không muốn coi bệnh hoạn là một lối thoát cho mình. Còn Thạch? Còn Cảnh? Còn An? Cảnh chắc chắn sẽ bỏ ra hậu phương. Thế lực của bác sĩ Tân giúp An được yên ổn. Chỉ còn Thạch! Hắn sẽ làm gì? Đồng lo lắng cho Thạch. Mối tình của hai nhân vật trong cuốn tiểu thuyết truyền vào tâm hồn Đồng những xúc động yêu đương bồng bột. Đồng muốn yêu một người, muốn có một người yêu mình, Đồng không chịu được sự cô độc như Thạch. “Có lẽ tại mình ốm yếu”, Đồng tự bảo thầm. “Nhưng tôi muốn được yêu. Hà và Phương đã mất rồi. Ai? Tôi sẽ yêu ai?” Đồng không thấy một hình bóng nào hiện lên trong óc. Đồng nằm xuống giường, thân thể bồn chồn một nỗi nhớ nhung da diết. Đồng ngủ thiếp đi và mơ thấy một khuôn mặt quen quen. Tỉnh dậy Đồng tưởng tượng mãi khuôn mặt ấy trong trí nhớ. Nga! Nga! Phải tại sao Đồng không yêu Nga? Tại sao không? Lúc ấy vào ba giờ chiều, Đồng mặc quần áo đi xe điện lên phố. Đồng xuống chỗ tránh tàu ở con dốc Quan-thánh, đi bộ đến nhà An—Nga là em gái của An—Khi đứng trước cổng biệt thự của bác sĩ Trần-quang Tân Đồng mới thấy mình vô lý hết sức. Đồng chỉ gặp Nga một lần khi đang đi phố với An, cũng như các bạn Đồng chưa đến chơi nhà An lần nào. Nhưng chuông đã kêu, cổng sắt đã mở và kia Nga đứng trước mặt Đồng. Nga dẫn Đồng qua một lối sỏi trắng—gót chân Nga trắng hồng quý phái—vào phòng khách. Gian phòng trang hoàng theo kiểu Tây phương sang trọng. Đồng ngồi xuống, cảm giác hoang mang ngây ngất dịu đi. Đồng thấy hơi thở nóng trong cổ họng và mệt mệt, mồ hôi lấm tấm trên trán. Nga vào trong vài phút rồi ra ngồi đối diện với Đồng. An vắng nhà. Nga hỏi Đồng bằng giọng dịu dàng xem Đồng có muốn nhắn gì cho An không hay Đồng viết vài chữ để lại cho An. Không đợi Đồng trả lời Nga lại trở vào trong lấy giấy bút cho Đồng. Đồng nhận lấy giấy bút song không viết, Đồng nhìn thấy hào quang trong mắt Nga. Ngực Đồng bỗng mệt lắm, Đồng nghĩ Đồng không đứng lên được. Đồng nghe thấy tiếng Nga kêu: “Anh bị mệt”. Hình như Đồng lắc đầu xua tay nói: “Không, tôi không việc gì hết”. Nga chạy vào trong lên cầu thang. Đồng tựa vào lưng ghế duỗi chân thở lấy hơi rất chậm, nước mắt đầm đìa. “Không được chảy nước mắt Nga sẽ trông thấy”. Một lát Nga trở xuống thì Đồng đã tỉnh và mỉm cười. Nga đưa cho Đồng cốc nước lọc và hai viên thuốc, Đồng uống ngoan ngoãn. Nga vẫn đứng yên—nhìn. Đồng chăm chú, Đồng không dám lau hai khóe mắt cay xè.
Rời khỏi nhà Nga, Đồng cảm thấy dễ chịu nhưng lòng buồn vô hạn. Đồng biết rằng Đồng phải yêu Nga. Không còn là thứ tình vui sường bay bổng như thời mười lăm mười sáu, tình yêu mở lên cho Đồng thấy rõ thân phận của mình. Người ta không được quyền từ chối (Thạch muốn từ chối chăng?), người ta phải chấp nhận tình yêu, bởi làm sao chạy trốn nổi thân phận của mình? Nếu tình yêu chân thật là sấu bị, không có gì bắt người ta phải sống đúng thân phận mình hơn tình yêu. Đống khám phá chân lý trong giây phút Nga nhìn thẳng thắn vào mắt rưng rưng của Đồng. Đồng ngược lên chỗ tránh tàu đợi chuyến xuống phố, Đồng không muốn về nhà.
II
Chiều giao động trong ánh sáng màu chì. Thành phố vẫn nhiều những tiếng động thường ngày nhưng dường như bị nghe qua một tấm kính dày là sự trống vắng rừng rưng. Con phố Tràng-thi mải miết im lặng. Cây đa um tùm trong sân thư viện Pasquier đổ đầy lá và búp xuống cỏ. Viền lối đi trong sân những luống hoa thấp bé, màu vàng màu đỏ kín đáo. Phòng đọc sách hiu quạnh, một vài người chăm chú làm việc bên những chồng sách, Đồng không gặp người nào quen. Đồng quay ra đứng trên thềm phân vân. Vừa lúc Thạch, An, Cảnh từ cổng vào. Họ đang bàn cãi về một vấn đề gì đó. Đồng nhập bọn và họ ra lối sau thư viện ngược đường Hai bà Trưng về phía trường Đại-học.
Câu chuyện quay quanh tác phẩm La nausée của Sartre. Cảnh nói:
— Tôi không chịu nổi Sartre. Thứ triết lý đó là thứ sặc mùi tiểu sảo của tiểu tư sản. Ngồi mà ngắm khuôn mặt bàn tay ngón tay mình, cái rễ cây, vườn hoa, rồi rình rập để quan sát từng cử chỉ nhỏ nhật của người khác khi người ta ăn uống, người ta ngủ với nhau để thấy lợm giọng, để nhận ra cái chân lý cuộc đời là phi lý thì phải bảo người ta đã phi lý ngay trong những hành vi ấy. Tại sao không đếm xem mình có bao nhiêu cái lông mà nghĩ về đời sống? Như thế còn thấy phi lý hơn nữa. Theo tôi khi người ta quay vào mình lấy ý thức chủ quan để quan sát mình cũng như sự vật, tìm hiểu ý nghĩa đời sống là làm một cuộc rượt bắt vô ích. Ý thức chủ quan tách rời ngoại giới đứng ngay trong nó là vô nghĩa, ý thức chủ quan đã vô nghĩa thì còn cái gì là có nghĩa. Trước hết phải tìm ý nghĩa cho cái ý thức chủ quan của mình đã, tìm bằng hành động, nhập vào ngoại giới. Thay đổi ngoại giới; cho ngoại giới có ý nghĩa của nó phải thành, đạt được đến cái devenir của sự vật thì ý thức chủ quan mới thấy nghĩa lý của chính nó. Đời sống của người ta hữu lý ở chỗ tìm đến sự thành hình tất yếu của mình chứ không phải là quay vào với từng giây phút thoáng qua sẽ mất đi, sự thành hình trong một toàn thể xã hội nhân loại. Còn với cá nhân thì tất nhiên là thừa là phi lý là láo toét.
Giọng nói của Cảnh nhát gừng nhưng đanh thép. Mọi người im lặng đều bước. An lên tiếng cãi:
— Nhưng cậu phải công nhận Sartre đặt rất đúng vấn đề tự do. Tự do là bản thể của người ta, người ta không thể nào khước từ tự do.
— Nếu bảo người ta được tự do để rồi bởi cái tự do tuyệt đối không cơ sở ấy dẫn người ta đến cái phi lý của đời sống thì thà người ta không tự do mà đời sống có ý nghĩa còn hơn. Cảnh ngắt lời An.
— Không tôi nhất định thấy phải tự do dù từ đó phải nhận luôn là cuộc đời phi lý còn hơn cái ý nghĩa của đời sống khi không có tự do. An cãi bướng—Biết đâu ý nghĩa của đời sống chẳng chính là ở chỗ phi lý của nó.
— Đó là quan niệm của tư sản. Cảnh trả lời giọng gay gắt.
An đỏ gay mặt không nói được nữa, và lấy thuốc lá hút. Đồng đút hai tay vào túi quần bước trầm tĩnh. Thạch không bày tỏ ý kiến. Cả bọn ngồi lại trên chiếc ghế đá ở vườn hoa trước viện bảo tàng Finot, thẳng mặt là con đường bờ sông với bờ đê cao. Thạch khơi lại câu chuyện bỏ dở với Cảnh:
– Tôi đồng ý là chúng ta phải đi tìm ý nghĩa đời sống trong cách nhập làm một với ngoại giới bằng hành động. Phải nhận thức được sự trưởng thành của xã hội để tham dự thì cái ý thức chủ quan mới có nghĩa của tự do, vì tự do là biết chấp nhận sự tất yếu. Nhưng tôi hỏi cậu sự trưởng thành của xã hội có bắt buộc phải là chế độ Cộng-sản hay không?
— Cậu muốn đi tới đâu? Cảnh hỏi gặng lại
— Cậu hãy trả lời câu hỏi của tôi đã
— Tất nhiên
— Tôi hỏi cậu trong cái quá trình vận động của xã hội để tiến tới Cộng-sản, ý thức chủ quan của người ta có quyền tự do để nhận thức sự tất yếu mà tham dự hay đã bị quy định bởi những tương quan xã hội từ trước?
— Cậu nhớ rằng tự do là lá bùa hộ mệnh của tư sản và nó sẽ chỉ đưa cậu tới chỗ phá quấy.
— Tại sao cậu không trả lời vào câu hỏi của tôi mà cứ dán cho nó những nhãn hiệu?
— Tôi không muốn trả lời vì cãi nhau mất thì giờ vô ích—Cảnh ngắt ngang đứng dậy—Hàng đống sách của tư sản lải nhải về vấn để ấy nhưng nó cứ nằm trong thư viện và trong đầu mấy cậu, còn lịch sử vẫn bước những bước khổng lồ ngoài kia.
— Vấn để không phải là của tư sản—Thạch nổi nóng—giả thử của tư sản chăng nữa thì cũng cần phải xét nội dung của nó. Sao lại gạt bỏ một cách dễ dàng như vậy?
Cảnh lắc đầu hơi nhếch mép không đáp. Dáng người thấp bé của hắn lộ vẻ kiêu hãnh đáng ghét. Thạch cố hỏi:
— Tại sao cậu không trả lời tôi? Tôi không thích cái thái độ im lặng trịch thượng ấy.
— Tự tôi không thích tranh luận nữa. Chẳng đi đến đâu cả. Giọng Cảnh rừng rưng.
Nói xong Cảnh quay lưng bỏ đi vài bước. Thạch ngồi im giận dữ. Bỗng Thạch đứng lên đuổi theo Cảnh, nắm lấy cổ áo Cảnh dựt lại. Cảnh vừa quay mình thì Thạch vừa hét vừa đánh mạnh vào mặt Cảnh:
— Tao phải đánh vỡ mặt mày.
Việc xảy ra bất ngờ khiến Cảnh cũng như An và Đồng không kịp trở tay. Cảnh loạng choạng ngã ngồi bệt xuống cỏ, An và Đồng giữ tay Thạch. Cảnh đứng dậy giận tái mặt nhưng lại bình tĩnh phủi quần áo bỏ đi. Thạch lồng lộn:
— Bỏ ra, bỏ ra. Tao phải đánh vỡ cái mặt hỗn xược của nó.
Thạch gạt được Đồng ngã xuống thì Cảnh đã đi khuất. Ba người quay trở lại thư viện không ai nói một lời nào. Về đến thư viện Thạch chia tay bạn. An lấy xe Vélo-Solex đèo Đồng phía sau lên hồ Tây. Hai người ghé vào một quán nước ven hồ Trúc-bạch. Gió thật rộng và có lạnh. An nói với Đồng:
— Cậu có thấy chúng mình mất tuổi thanh niên hay không? Đáng lẽ những việc ấy phải để dành cho người lớn tuổi, mình chỉ lo học hành và hưởng lấy thú vui của tuổi trẻ, trái lại mình già cỗi. Không có bụng dạ để học, bị xâm chiếm âu lo về những vấn đề vượt ngoài tầm sức mình, sống chật hẹp trong những thành kiến của thời đại. Ai bảo tuổi trẻ hoa mộng là sai với bọn mình. Tuổi trẻ không có mặt trời không có biển không có không gian với những lo nghĩ khoắc khoải đến vô lý. Đáng lẽ gặp nhau phải nói chuyện yêu đương mới phải, nhưng lại chẳng có nổi một mối tình cứ cho là viển vông đi để mà kể nữa. C'est triste.
Đồng mỉm cười không nói. An lại tiếp lời:
— Lúc nãy tôi định bàn với các cậu là chúng mình có thể chung nhau ra một tờ tuần báo. Mỗi thằng chịu khó dạy học kiếm tiền mỗi tháng trích một ít là đủ. Thằng Cảnh sẽ viết lý luận và phê bình, thằng Thạch có thể viết tiểu thuyết được, tôi làm thơ và cậu vẽ, như thế đủ bộ.
— Mỗi thằng một ý làm thế nào đứng chung nhau. Cậu xem mới chỉ nói chơi chúng nó còn choảng nhau, nếu làm việc chúng nó dám giết nhau lắm.
— Tôi cũng đã nghĩ đến điều ấy ngay từ đầu. Nhưng tôi vẫn chủ trương phải tự do.
Đồng gật đầu tỏ ý tán thành. Nghĩ ngợi một lát, An lại nói:
— Tìm cho mình một bản ngã độc đáo là tự nhốt mình trong một nhà tù kiên cố nhất, không thể liên lạc với kẻ khác bằng cách nào khác hơn là sự khinh ghét thù hằn. Tôi biết thằng Cảnh khinh bọn mình, coi là thứ học trò sảo mép kiêu ngạo. Thằng Thạch đánh thằng Cảnh vì thằng Cảnh đã dám coi thường cái bản ngã độc đáo của nó. Tôi nhớ tôi có ngỏ ý định muốn viết văn với thằng Thạch, nó mỉm cười bảo tôi là tôi sẽ chẳng làm nên chuyện gì khi tôi còn ngồi trong cái biệt thự của tôi, nó cũng khinh tôi. Tôi chỉ có mỗi sự thành thật và nhu nhược, cái thế của tôi là tôi không khinh được thằng Cảnh thằng Thạch nên tôi khinh tôi.
Đồng chỉ lẳng lặng ngồi nghe để cho An nói. An còn nói nhiều nữa. An nói về trường hợp của Gide. An đọc thơ Apollinaire:
Ouvrez-moi cette porte où je frappe en pleurant...
Bài thơ hỏi người nhìn giải mây thấp xuống với chiếc tàu mồ côi về phía những cơn sốt sắp tới và người có còn nhớ những niềm luyến tiếc ấy những nỗi ân hận ấy... Một đêm là biển cả... Tôi còn nhớ tôi còn nhớ lắm... Một buổi chiều đi xuống một quán rượu buồn gần vườn Luxembourg, cuối phòng bay lên một đấng Christ. Một người có một con chồn, một người khác một con dím, người ta đánh bài và người đã quên tôi rồi... nhớ không nhà ga như viện mồ côi, thành phố quay cuồng nôn ra những đêm tối, mặt trời, những ngày... Hai người thủy thủ không bao giờ rời nhau. Hai người thủy thủ không bao giờ nói với nhau. Người trẻ nhất ngã chết… Rồi Đồng bất tỉnh trong đầu không còn hiểu ý nghĩa gì nữa dù An vẫn say sưa đọc. Đồng thấy lạnh cùng mình.
Ouvrez-moi cette porte où je frappe en pleurant.
La vie est variable aussi bien que l'Euripe...
Sau đó Đồng cử động trong trạng thái bấp bênh. An đèo Đồng về đến Thụy-khê, thả Đồng xuống đầu ngõ. Đồng bước những bước không vững. Vào được đến giường nằm, Đồng ngã xuống cơn sốt mê man.
(Trích chương thứ 1)
BUỔI SÁNG CHỦ NHẬT
Gửi Oanh
Trong hai ngày liền, những trận mưa ngâu bỗng thấy nặng hạt hơn. Gió thổi dữ nhưng điệu mưa vẫn đều không hối hả, bầu trời tấm tức chứa đầy nước không thể trút mạnh xuống một lần. Sáng ngày thứ ba, đài khí tượng loan tin một trận bão từ Nhật bản thổi qua vịnh Bắc-Việt. Đồng thời trên trang nhất các nhật báo ở Hà-nội, những hàng tít lớn dành cho trận đánh lớn của quân đội V.M. vào một tỉnh miền Nam trung châu, mở đầu cho chiến dịch Thu-Đông năm 1952, đã được bốn hôm. Nửa đêm ngày thứ ba của trận bão, trời đổ mưa thật lớn, Đồng thức giấc khoan khoái, giấc ngủ trong một đêm mưa to yên lặng một cách dễ chịu.
Sáng hôm sau là một ngày chủ nhật. Đồng có hẹn với Nga, trận bão đã đi qua, bầu trời mùa thu lại mờ mờ như cũ. Nhìn ra ngoài vườn cây cối ướt át sơ sác, gió đã êm. Đồng xuống sân rửa mặt thấy mẹ mặc áo bông, đang cùng u già tráng bánh dưới nhà ngang như thường ngày. Bà cụ mang lên nhà trên cho Đồng một cốc sữa nóng và ổ bánh mì. Đồng đang thay quần áo, cụ hỏi:
— Cậu không ở nhà? Hôm nay vợ chồng anh Thái với các cháu về chơi đấy.
— Con phải lên phố có chút việc. Anh chị ấy thế nào chẳng ở lại đến chiều.
Thái là anh cả, đã lập gia đình có ba con, mở hiệu chữa xe đạp ở chợ Hôm, thường chủ nhật cho vợ con về thăm mẹ. Ba đứa cháu của Đồng, lớn nhất chưa quá mười tuổi nhỏ nhất hai tuổi, đều là con gái và rất quấn quít với chú.
— Cậu lấy khăn quàng cổ cho ấm—mẹ Đồng đứng lại ở cửa buồng đợi Đồng nghe theo lời khuyên.
Đồng quấn khăn đội thêm cái mũ nồi, bà cụ mỉm cười tỏ vẻ hài lòng. Đồng xuống nhà ngang lấy xe đạp, người u già lãng tai làm cho gia đình từ ngày Đồng chưa ra đời vẫn đều tay say bột lặng lẽ ngước nhìn Đồng. Đồng dắt xe qua vườn ra lối cửa sau, chú Tư đang quét dọn mặt đất hỏi:
— Cậu Đồng đi chơi sớm thế?
Đồng đẩy xe lăn qua đống quả ủng chú Tư vừa vun gọn và cười thay cho câu trả lời.
Trên dốc Quần-ngựa, gió hút bạt cả hơi thở. Đồng nghỉ chân mặc cho bánh xe lăn về phía vườn Bách-thảo. Đồng nghĩ đến Nga, với cặp mắt thông minh nghịch ngợm, điệu bộ lúc nào cũng như riễu cợt, riễu cợt hơn cả Đồng làm chính Đồng đôi khi cũng bực mình, giọng nói liến thoắng láu lỉnh, nhưng tất cả toát ra sự hồn nhiên quý báu. Nhớ lúc hai người ngỏ tình với nhau thật dễ dàng và thẳng thắn. Vào buổi sáng, Đồng đến chơi, An đi vắng. Nga tiếp Đồng trong phòng khách. Biết tính Đồng, Nga rót cho Đồng một cốc nước lọc đấy. Tự nhiên Đồng không muốn nói chuyện nữa, ngồi lặng im, nhìn cốc nước trong vắt.
— Anh nghĩ gì đấy? Nga hỏi vì có đến năm phút Đồng không nhúc nhích.
— Anh tìm mắt Nga trong cốc nước. Nói xong Đồng bàng hoàng tỉnh cơn mơ mộng, không ngờ mình đã ăn nói sỗ sàng, Đồng đợi phản ứng của Nga.
Nga ngồi ở ghế đối diện thoáng một chút bối rối, rồi lại bình tĩnh như thường.
— Anh thấy thế nào?
— Đẹp như buổi sáng này vậy.
— Có đẹp bằng mắt Phương không?
Đồng hoảng hốt vì câu hỏi, chắc Nga đã nghe An nói về mối tình của Đồng với Phương, cô bạn học cùng lớp, năm thi Tú-tài phần nhất, Phương đã sang Pháp du học. Đồng nhìn thẳng vào mắt Nga không chớp và Nga cũng nhìn trả lại, sự im lặng chập chờn trong không gian hết sức dịu dàng. Đồng uống vội hết cốc nước rồi đáp:
— Còn kém xa.
Lúc này Nga ngửa cổ cười ròn rã, má nàng đỏ hồng, nàng làm bộ quắc mắt nói:
— Anh trả lời hay nhỉ.
Sự giận dữ đầu tiên của Nga thật là duyên dáng. Nga bước đến bên Đồng dằng lấy cái cốc bảo:
— Em rót cho anh cốc nước khác, anh thử nhìn lại lần nữa xem.
— Vẫn không đẹp hơn—rồi hạ thấp giọng, Đồng bảo: nhưng đáng yêu hơn nhiều.
Nga đứng trước mặt Đồng và cúi xuống, Đồng vẫn ngồi im, cầm lấy cốc nước với cả bàn tay Đồng nâng lên môi uống. Nàng nói nhỏ nhẹ:
— Em chịu thua.
Nga mặc áo dạ đỏ nhạt, ngồi trên yên xe đạp tựa vào vỉa hè bên đền Quan-thánh, đang mải nhìn về phía trường Bưởi đón Đồng, Đồng đạp thẳng theo phố Cửa Bắc vòng về sau lưng Nga, và cho xe đâm vào bánh xe sau của Nga khiến Nga ngã. Nàng nói dỗi:
— Anh nghịch tinh lắm, em không thích đâu.
— Em không thích thì em đi chơi một mình, Đồng tủm tỉm cười.
— Cũng được, càng tốt. Nói xong Nga lái xe sang phía con đường đôi không nhìn lại, Đồng đạp chậm theo.
Một lát không thấy Nga ngó lại phía sau. Đồng cho xe chạy song song hỏi:
— Cô ơi, cô định đưa tôi đi đâu đấy?
— Anh cũng đi theo đấy à, Nga làm bộ lạnh nhạt, cứ chịu khó theo rồi khắc biết.
Đồng khịt khịt mũi không hỏi nữa. Đến vườn hoa Canh-nông, Nga cứ cho xe chạy vòng mấy phố quanh vườn hoa, đến vòng thứ ba trời bắt đầu lất phất mưa, Đồng đỗ xe trú dưới vòm cây cạnh một tòa nhà lớn, Nga tưởng Đồng vẫn đạp theo sau mình nên cứ tiếp tục, Đồng đứng nhìn cái dáng kiêu kỳ của người yêu mà cười. Hết vòng Nga cũng vào tránh mưa cùng chỗ với Đồng mặt giận làm như người không quen. Đồng vẫn khúc khích cười một mình, Nga thút thít khóc, Đồng để yên. Sau đó, Đồng dịu dàng bảo:
— Bây giờ em đưa anh đi chứ?
— Anh ác lắm, Nga nói giọng nước mắt, tại sao anh không xin lỗi em một tiếng?
— Thì anh xin lỗi em, được chưa. Đồng đứng sát lại gần Nga.
— Tại em muốn anh mới xin lỗi, Nga lắc đầu phụng phịu, tự ý anh anh không xin lỗi bao giờ hết.
— Em trẻ con lắm, Đồng gắt yêu, người ta xin lỗi, người ta xin lỗi là được rồi còn gì nữa. Đây vậy thì tự ý tôi là Đồng, tôi xin lỗi cô là Nga. Bằng lòng chưa?
— Bằng lòng. Nhìn vào mắt Nga bây giờ, giá không phải là phố đông Đồng đã hôn lên mắt ấy.
— Vậy thì em định đi đâu?
— Anh cứ theo em.
Hai người đạp xe theo phố hàng Bột. Nga bảo:
— Anh cất cho em cái mũ nồi đi. Em muốn trông thấy tóc của anh. Anh không thấy mái tóc của anh nó thi sĩ lắm hay sao?
Đồng bỏ mũ nhét vào ngực áo, gió thổi xòa một khóm tóc xuống trán xấp mồ hôi của chàng. Đồng nghĩ thầm: “Nga muốn ám chỉ tập thơ mình làm tặng Hà và Phương mà mình đã vứt xuống sông năm ngoái đây”.
— Em còn muốn bắt anh phải làm gì nữa không? Đồng hỏi.
— Em muốn anh không cười nữa và anh buồn.
— Quái gở, Đồng cười rộ lên làm cho lũ trẻ con bên đường cũng cười theo, em quái gở lắm. Nhưng tại sao em thích anh buồn?
— Tại em chưa thấy anh buồn. Em chắc anh buồn em sẽ yêu anh hơn, anh buồn có lẽ anh sẽ cần đến em. Còn cho đến bây giờ em vẫn chẳng có nghĩa gì với anh hết.
Những lời của Nga đột ngột nhói thẳng vào tim Đồng. Đúng, Đồng không hề buồn trước mắt người khác, Đồng hay đùa nghịch châm biếm khôi hài trái hẳn vẻ nghiêm nghị khắc khổ của bọn Thạch, An, Cảnh. Nhưng nếu người ta biết những lúc Đồng ngồi suy nghĩ một mình về bệnh tật, về cái chết, về bạn bè, về người yêu... nếu người ta biết những đêm tối trằn trọc với những cảm giác kỳ lạ bất thường trong cái thân thể yếu đuối, trong cái ý thức vùng vẫy, trong cái tiềm thức vi phân... nếu người ta biết Đồng đã xô đụng mơ hồ tới những giới hạn vô cực của cái ý nghĩa sống còn...
— Nhỡ khi anh buồn anh lại càng không cần đến em thì sao? Đồng cười, tiếng cười dấu trong cuống họng và ngực. Rồi thốt nhiên Đồng ứa nước mắt dễ dàng và chàng nhìn đường dốc Ô chợ Dừa thấp thoáng đông đúc. Đồng rút khăn tay chấm nước mắt, mỉm cười quay sang Nga nói tiếp: Em bằng lòng chưa? Anh đang khóc đây này.
— Anh nói dối, Nga cười vô tư, gió thổi cay mắt anh thì có. Anh hay lừa em lắm.
— Anh ghét em vì em thông minh quá, Nga ạ.
Đồng ngạc nhiên khi thấy Nga rẽ vào nhà thờ Nam-đồng.
— Vào đây làm gì em? Đồng hỏi, níu lấy tay Nga cho hai xe chạy chậm trên đường lát gạch.
— Em đi lễ, Nga trả lời tự nhiên.
Đồng gật đầu tỏ vẻ hiểu ý, lúc này Đồng mới trông thấy cuốn kinh đóng bìa da Nga cầm trên tay. Hai người dựng xe vào trong một cái rãnh xi-măng nhỏ. Nga ngắm nhìn Đồng. Đồng lơ đãng đưa mắt quan sát khoảng đất rộng trước nhà thờ.
— Anh có phải vào không em? Đồng hỏi lúc hai người đi tới một cái hành lang lát đá hoa im lặng và ánh sáng hơi mờ.
— Tùy ý anh, Nga đứng lại ngó Đồng.
— Anh đợi em ngoài này nhé. Đồng cầm lấy bàn tay không của Nga.
— Em sẽ cầu nguyện cho anh, Đồng cảm thấy những ngón tay mềm ấm áp của Nga ôm bíu lấy bàn tay mình.
Đồng đợi cho Nga bước vào nhà thờ, quỳ xuống một chỗ gần một góc cột cạnh tòa giải tội, lẫn vào trong đám đông thành kính, nhìn mái tóc người yêu và cái vòm cao đục lờ, nghe giọng hát thánh ca bay lượn bao trùm khoảng kín không biết phát xuất tự góc nào đệm theo tiếng đàn Harmonium vang dội, Đồng bỗng thấy thần trí hoang mang buồn nản. Khi Đồng quay lưng đi ra phía sân trong là lúc bản thánh ca dứt, một hồi chuông vang lên rồi tới lời truyền giảng chậm rãi âm âm.
Đồng men theo lối đất đi về cuối sân. Đó là một khu vực rộng gồm những dãy nhà không cao lắm, kiến trúc trang nghiêm tẻ lạnh, chạy song song cách nhau những khoảng sân lớn đang trồng cây. Đồng đứng lại xem người ta dẫy cỏ sửa sân, hình như người ta muốn làm ở góc này một sân bóng truyền. Trông thấy mấy nhà thầy tiến lại chỗ làm việc, Đồng bỏ đi vòng sang con đường khác. Trời lại bắt đầu ẩm ướt, không khí của một cuộc biệt ly, Đồng nhớ đến Thạch. Nửa tháng Thạch ở Hà-nội, Đồng chẳng có dịp nào nói truyện lâu với bạn, mà hình như Thạch cũng muốn tránh tâm sự, Thạch có chuyện gì muốn dấu, Đồng biết thế. Chơi với bạn từ nhỏ, ngày còn học trường Pierre Pasquier bây giờ là trường huấn luyện cảnh sát, sau đến trường trung học Gia-Long bây giờ đã chia làm nhiều gian cho thuê để ở, Đồng đã quen với tính nết của Thạch: lầm lì ít nói và cục. Lớn lên Thạch lại càng khó tính và bí ẩn hơn, Đồng có cảm tưởng mình phải bám lấy Thạch để hiểu Thạch và che chở cho Thạch. Đồng không hiểu Thạch có cần sự che chở ấy không, một thứ hiện diện săn sóc xuông mà thôi, nhưng tình cảm ấy cần cho Đồng. Đồng vẫn ví khuôn mặt Thạch như là cái lô cốt chỉ hở hai lỗ châu mai đặt hai họng súng, nghĩa là người ta chỉ tìm thấy trên nét mặt ấy những dấu vết rõ ràng của khổ sở tàn phá và cặp mắt thì lạnh lùng, dữ tợn, thù hằn. Ngày Thạch rời Hà-nội không ai biết, lần xuống Nam-định chỉ có Đồng tiễn Thạch, Đồng đã hỏi An và Cảnh, cả hai cũng không gặp lại Thạch; chỉ có An là trước đó vài hôm đã đi chơi với Thạch một buổi tối vì Thạch xuống tìm tại nhà, từ đó đến nay Thạch biệt tin tức. Đồng nói thầm: “Nó tự tử”. Bỗng nhiên Đồng rùng mình và muốn được hôn Nga, chưa bao giờ Đồng cảm thấy sự thèm muốn Nga nồng nhiệt như bây giờ. Đối với Đồng việc cầm tay Nga trong tay vẫn là một động tác quý báu trong sạch; Thạch đã từng chỉ trích Đồng: “Cậu lãng mạn lắm”. Đồng nhớ lại ngày yêu Phương, gia đình Phương rất tự do. Đồng đến chơi ở cả ngày có khi tôi tối mịt trong phòng riêng của Phương; Phương thường hôn Đồng trong khi người nhà qua lại bên ngoài phòng; một buổi chiều mùa đông trong phòng tối xầm trông không rõ mặt người, Phương ôm Đồng ngã xuống, Đồng sợ hãi cứng người, kịp ngồi dậy trước khi Phương tháo cúc áo sơ-mi đầu tiên của Đồng, Đồng ra ngồi trước bàn học không dám bật đèn cũng không dám mở cửa phòng, lát sau khi bà Các, mẹ của Phương, gõ cửa gọi hai người ra ăn cơm, Đồng vội cáo biệt. Đồng không thể quên được tiếng khóc ấm ức của Phương trong bóng tối, Phương đã nói rất nhỏ vì xấu hổ: “Anh sẽ hối hận, vì chỉ có anh em mới làm thế. Anh là người yêu thứ nhất của em, anh không tin sao”. Đồng lắp bắp đáp: “Anh tin em, anh hiểu lắm”.
Khuôn mặt của Nga trong nhà thờ bước ra rực rỡ vui tươi.
— Em đẹp như tượng... vậy. Đồng cười nói.
— Anh không được nịnh em hỗn như thế. Nga để ngón tay trỏ lên môi, trừng mắt.
— Vậy thì anh bảo là em đẹp quý phái lắm. Đồng cầm tay Nga vuốt ve. Có tiếng người nói chuyện đâu đây, Nga gỡ tay Đồng rồi dắt chàng đi, Nga nói:
— Em vừa thú tội xong.
— Em thú tội gì? Nga vội bụm tay vào miệng Đồng.
— Anh không biết người công giáo có hai điều thiêng liêng nhất là lúc thú tội và lúc chịu phép mình thánh? Anh không được ăn nói bậy bạ.
Đồng ngó ngoáy đầu, cười khúc khích trong bàn tay Nga, hỏi:
— Vậy em thú những gì nào?
— Em thú rằng em yêu anh hơn ai hết trên đời này, em phục tòng kính trọng anh mà anh thì vô đạo. Em biết rằng không đời nào em có thể dắt anh trở về con đường của Chúa, em lại cũng biết rằng em không thể bỏ anh vì Chúa và như thế là em phạm tội.
— Em có thể vừa yêu Chúa vừa yêu anh cũng không sao.
— Cha khuyên em nên xét kỹ lòng mình—Nga nói tiếp giọng ấm áp, không chú ý tới câu nói của Đồng—nên hiến trọn mình cho tình yêu Chúa và nếu quả thật tình yêu Chúa nơi em là cao cả thì nó sẽ cảm hóa được anh, làm nảy nở tình yêu đấng tối cao ở anh.
Đồng và Nga đã đứng bên xe đạp, Đồng hỏi:
— Em có tin như thế không?
— Em chưa biết vì em hiểu anh. Đối với anh cũng như đối với Chúa, tình yêu của em chỉ có một thể, đó là sự thần phục tuyệt đối.
Đồng cảm thấy lạnh dọc xương sống, những lời của Nga nói thành thật nghiêm trọng không phải là đùa bỡn. Đồng tự hỏi: “Nga theo đạo từ bao giờ”, Đồng biết chắc là gia đình An không ai là người công giáo. Đồng vẫn cố gắng mỉm cười, hỏi:
— Vậy em có buồn không?
— Em muốn hỏi lại anh câu ấy.
Đồng nhấc chiếc xe đạp lên nhìn lảng chỗ khác đáp:
— Anh đã bảo anh ghét em vì em thông minh quá. Thôi chúng mình đi về.
Anh yêu,
Ba ngày hôm nay em trông đợi không thấy anh tới thăm em. Em ở nhà một mình buồn quá. Cậu mợ em vào Sài-gòn từ hôm thứ hai, để vận động chính trị—có lẽ cậu em sẽ giữ một chân bộ trưởng trong chính phủ sắp cải tổ (em không muốn để ý tới chuyện ấy nhưng ở trong nhà nên vẫn phải biết), anh An đi chơi vắng suốt ngày và được thể suốt đêm nữa, trong khi em đang viết cho anh đây thì anh ấy còn ngủ vùi trên buồng. Em tạm nghỉ học trông nhà, công việc đã có người làm hết, em chỉ đi lại quanh quẩn trong nhà mà nhớ tới anh. Nhớ tới anh nhiều quá em lo sợ rằng anh giận em. Em biết tính anh là giận đấy nhưng mà vẫn cười đấy, giá em có hỏi, anh lại làm trò nhăn mày nhăn mặt cười khích khích rồi nói: Anh mà giận em, có họa là điên. Anh tưởng đánh lừa được em, nhưng em thừa thông minh để nhận thấy sự quá dễ dãi ở anh chính là sự biểu lộ của giận dữ đè nén. Em hiểu anh nên mới yêu anh chứ người khác chịu thế nào nổi anh, như Phương chẳng hạn (bây giờ em nói thẳng cho anh rõ là em biết Phương vì Phương chơi thân với một người bạn thân của em, nếu anh muốn biết tin tức của Phương em sẵn sàng bảo cho). Và em càng yêu anh, em càng hiểu anh. Anh có nhận như thế không nào?
Vậy thì—em bắt chước giọng của anh đấy—em buồn quá, nhớ anh quá và yêu anh quá vì biết rõ rằng anh đang giận em. Không giận thì tại sao anh không “nghe thấy rằng em đã cần có anh ở bên cạnh mà tìm tới thăm em?” Nhất là sau buổi gặp nhau hôm chủ nhật, em còn rất nhiều điều muốn nói với anh mà chưa nói được. Lần nào gặp anh, em cũng dự định rất nhiều điều nhưng trước mặt anh, anh không bao giờ làm cho em dễ dàng thổ lộ, hoặc anh chọc tức em, hoặc anh mê hoặc lôi cuốn ý nghĩ người ta đi đâu đâu, hoặc thái độ của anh làm cho em tự nhận thấy mình lố bịch. Nhưng bây giờ em không sợ anh nữa, anh không ở trước mặt em, em viết cho anh đọc.
Anh có hiểu em yêu anh đến chừng nào không? Chưa bao giờ anh tìm hiểu đo lường tình yêu của em đối với anh. Em không bảo rằng như thế là anh coi thường em nhưng thái độ của anh làm em bực mình. Nhiều lúc em chỉ muốn được nghe anh đòi em phải nói: Em yêu anh, để rồi anh cũng nói: Anh yêu em, nhưng anh chẳng hề làm. Trong ý anh mấy tiếng ấy thừa và vô nghĩa. Riêng em, em vẫn còn tầm thường thích nghe những lời trống rỗng ấy. Em cứ chóng mặt quay cuồng vì thứ tình yêu của anh, một thế giới ngổn ngang những im lặng, những khoảng trống, những thánh địa anh ném em vào để tự em dò dẫm tìm lấy lối phải theo; trong thế giới ấy em không thể bừa bãi nếu không muốn phá hoại, em cũng không thể thụ động nếu không muốn bị bỏ rơi. Anh thật là tàn ác, em vẫn nghĩ thế, tại sao anh không đơn giản như mọi người? Theo được anh, mệt nhọc chết người. Em tự hỏi: cái gì đã ràng buộc em vào với anh một cách vô lý như vậy? Nếu không phải là chính em, chính em cũng không đơn giản chút nào, phải không anh?
Có lẽ anh không biết rằng em đã để ý đến anh từ trước khi anh ngỏ lời với em, trước cả khi anh thường lại thăm em ở nhà. Một vài lần đầu gặp anh ngoài phố đi chơi với anh An, em không nhận thấy điều gì đặc biệt ở anh hết. Nhưng một lần khác, sự có mặt của anh đã làm em thảng thốt mê đắm, lần em gặp anh trong rạp chiếu bóng Studio, chắc anh không thể nhớ được. Khi em cùng hai người bạn bước vào căn phòng nhỏ bé ấm cúng ấy thì em trông thấy anh ngồi thu gọn gần như nằm giữa những hàng ghế trống. Chỉ có một mình anh, ngoài ra không còn ai khác, hình như anh nhắm mắt ngủ, ánh đèn mờ mờ và lúc ấy trên màn trắng là khoảng trống giữa hai đĩa nhạc, em nhận ra mái tóc bồng mềm mại với khuôn mặt của anh nghiêng về phía nhiều bóng tối như khuôn mặt trong ảnh của một tác giả cổ điển trong các sách lịch sử văn chương (em nhớ mang máng hình như em thấy giống Rousseau). Đó là ngày cuối phim nên đến khi chiếu trong gian phòng vẫn chỉ có ba đứa em và anh thôi, em ngồi đằng sau lưng anh, cách rất xa (chỉ có hai hạng ghế, anh ngồi hạng bét, chúng em ngồi hạng nhất). Chính trong hai đứa bạn em hôm ấy, một đứa là bạn thân của Phương đã nói cho em biết về chuyện giữa anh với Phương. Gặp đoạn phim thú vị, em nghe thấy tiếng anh cười lớn, tiếng cười cho một mình không cần sự hưởng ứng của bất cứ vật nào khác. Em cảm thấy ở anh một nỗi cô độc lớn lao tỏa chiếm lấy cả gian phòng và chúng em như những kẻ ngoại cuộc lẻn vào phá khuấy cái không khí của riêng anh mà anh ơ thờ không hay, em bị cuốn hút vào trong vòng cô đơn ấy. Khi anh đứng lên bước đi, đầu hơi cúi, hai tay buông thông, dáng khoan thai, anh quay lại nhìn bọn em mỉm cười, vẻ mặt anh lộ sự trêu cợt. Em nhìn anh ở phía sau, đi giữa đám đông trong thành phố buổi chiều, em nhận rõ cái vẻ đẹp đàn ông rất đáng ghét của anh (em trả lại chữ cho anh), vẻ đẹp của người đàn ông là cái vẻ tự đầy đủ không cần sự bổ túc của đàn bà nên cô đơn quá. Nhưng em đã yêu anh, bằng lòng sự phụ thuộc vào anh. Vì thật ra em cũng là kẻ cô đơn trong đời, nhưng là thứ cô đơn của phái yếu.
Em biết anh thắc mắc về việc em trở về đạo Chúa vì anh rõ gia đình em không có gốc đạo và cũng không người nào trong gia đình ngờ rằng em tìm thấy đức tin nơi Thiên-Chúa. Anh không thấy như thế là em cô đơn giữa những người thân yêu sao? Cậu mợ em là những người nhiều tham vọng, anh An là một tâm hồn khó hiểu, em vẫn thường cầu nguyện cho những người ấy cũng như cho anh, tâm hồn cô độc kiêu ngạo. Em vẫn tự hỏi: tại sao em lại cô đơn trong khi hoàn cảnh, học vấn, tư chất của em phản nghịch lại? Em chỉ tìm thấy tận trong thâm tâm những náo động của một nguồn tội lỗi kỳ quặc, tự nhiên em thấy em là kẻ có tội cần phải ăn năn cứu chuộc lấy linh hồn. Em không hiểu nguồn tội lỗi ấy nguyên nhân bởi đâu, em thành thật nói với anh, em rất nghiêm khắc trong việc xét mình nhưng em vẫn phải nhận là em còn trong trắng lắm. Thật là vô lý, một thiếu nữ cảm thấy tội lỗi không nguyên do. Nên em cô đơn lắm, nhưng em không phải là anh để chịu đựng lấy một mình. Em cần một nguồn an ủi, em về quỳ dưới chân Chúa xin Chúa che chở và cứu vớt lấy tấm linh hồn con cái của Chúa. Một vị linh mục đã giải cho em về cái cảm giác tội lỗi ở em là: Chúa đã chọn cách ấy để gọi em về với ánh sáng với chân lý và em đã nhận được ân sủng lớn của Người ban cho trông thấy cái ý nghĩa của kiếp trần gian này. Riêng em, em nhận một cách tầm thường là em chạy trốn sự cô đơn, em cần được thổ lộ những nỗi niềm với người lúc nào cũng lắng nghe em, em cần được khóc nức nở dưới cặp mắt hiền từ của người và vật trong gian nhà của Chúa, nghĩa là giải thoát sự cô đơn mà vẫn giữ nguyên vẹn sự cô đơn bầy lên trước mắt mình—em mơ màng thấy nó quý báu nhập vào những thần tượng trên ban thờ—không phá vỡ nó giữa cái đời sống sô bồ rửng rưng của người thân yêu xung quanh.
Anh hiểu vì đâu em yêu anh, yêu sự cách biệt trống vắng anh đặt ra ngăn giữa hai chúng ta. Nói thế nhưng hôm nay thì em vẫn nhớ anh quá, em ước mong anh sẽ tới với em để em sẽ nói với anh rằng em yêu anh, bắt anh phải trả lời: anh yêu em, tầm thường đơn giản như mọi người. Anh đừng giận em, tội nghiệp. Trong giây lát anh hãy quên anh đi, hãy thử nghĩ tới em không mà thôi, chắc rằng em sẽ sung sướng biết bao.
Em hôn anh suốt khi anh đọc bức thư này.
NGA
(trích UNG THƯ 59)
Ấn bản này lấy lại nội dung từ tạp chí Văn, phụ lục lấy từ tạp chí Sáng tạo và Hiện đại, sửa một vài chỗ chắc chắn là lỗi in và một số chi tiết về trình bày. Những chỗ trên tạp chí Văn bị kiểm duyệt được giữ nguyên.
Chủ nhật khác
2023
No comments:
Post a Comment