09/06/2025

Cát lầy

 

1.

Sự cô đơn của buổi chiều tỉnh nhỏ nổi trên góc phố. Ánh nắng như đám lửa bất động, sáng, không chói (ngọn lửa đam mê yếu ớt) che mặt tiền dãy nhà trệt kín cửa, trước kia là phòng ngủ, mỗi căn đều có hàng rào gạch ra tới sát lề đường vây lấy miếng sân xi-măng. Một mảng tường hông của căn nhà đầu dãy phố chính, cắt thẳng góc với phố, khuất tối hoen ố rêu phong của những mùa mưa cũ, viền một bên đường (Bích chương quảng cáo, khẩu hiệu tuyên truyền chồng chất lem luốc). Cổng chào giấy phết dựng một lần không tháo gỡ dùng cho mọi dịp lễ – màu nâu xỉn, màu vàng kim nhũ bay hết óng ánh như một niềm vui quen lạnh nhạt – quay lưng với vùng nắng trước nhà việc thị xã trông xuống vườn bông trên phố chính dẫn tới chợ, bến xe, bến sông. Sự vật đột hiện trong hình thù biệt lập như một bộ mặt nhăn nhó, Hiện tại trở nên xa mút như một nhịp cười. Cùng lúc sức hút đè nén của vật thể và sức đẩy tách lìa bơ vơ trong chân không chống chỏi nhau và thần trí rạn nứt, thụ động, rã rời như lớp tường cũ kỹ bỗng dưng xụp đổ.

Trời dần dần dịu, rớt xuống lượn lờ như một tấm khăn choàng mỏng trong gió. Cảnh vật khép lại, trồi lên. Buổi chiều này từ những ngày nào trôi dạt về trong thoáng chốc mang dấu tích mông lung. Trên khu đồi xa, đường cây cao um tùm, vọng tiếng reo hò của trẻ nhỏ. Kèn hơi bị kẹt thốt kêu không dứt. Một tiếng gọi giọng kim sắc gọn tan trong thinh không.

 

Con đường đất dốc thoải, cứng sạn, nối con lộ chính dẫn vào chợ và quốc lộ bọc vòng ngoài châu thành đưa tới cao nguyên. Dãy nhà chừng mươi căn, căn cuối cùng nằm bên bờ đường lở của quốc lộ – những góc đá xanh tròn nhẵn – nhìn sang một khu vườn chuối rậm, cách đường một con mương um cỏ sũng nước. Căn nhà ấy Hiệp và Thuận đã ở. Hai cánh cửa gỗ khóa trái, đóng chặt. Những khe hở cúp xuống, như những mi mắt đã khép. Thuận đã chết. Không còn ai ở, có lẽ không còn ai dám đến ở. Cửa sẽ đóng vĩnh viễn.

Hồi chiến tranh một gia đình cũng đã tự sát trong nhà ấy. Gia đình này từ Sài gòn tạm lánh lên tỉnh. Người chồng xếp đặt chốn ở cho vợ con yên ổn, bỏ chạy xa hơn nữa vào chiến khu. Một bữa lẻn về thăm nhà, người chồng bắt gặp vợ ngoại tình chém vợ sáu dao, lấy dây siết cổ bốn đứa con trước khi tự vẫn. Nhà bỏ hoang một thời. Viên Trưởng Ty Công An của tỉnh thời bấy giờ mua căn nhà với giá rẻ. Không rõ vì cảm tình đặc biệt hay có mối liên hệ nào, viên Trưởng Ty Công An cho một người đàn ông miền Bắc, bị đưa về tỉnh an trí vì hành vi chính trị, tới ở, phái một nhân viên thuộc hạ, vừa làm chân giúp việc vừa có phận sự canh chừng người bị giữ. Người đàn ông ít người thấy mặt, ông ta không khi nào xuất hiện, chỉ quanh quẩn ở phòng trong; hàng xóm cũng không hề nghe lọt tiếng. Lâu lâu viên Trưởng Ty Công An sau giờ làm việc hay buổi tối rảnh rỗi, ghé thăm người bị giữ chuyện trò; người ta chỉ nghe tiếng nói ồm ồm của y, tuyệt nhiên không thấy tiếng đáp lại và có cảm tưởng như y đang nói với hồn ma nào đó. Một buổi sáng (buổi mai non như vết thương mới nguyên), nhân viên có phận sự canh chừng phát giác người đàn ông tự tử cùng với người đàn bà đến thăm ông tối hôm trước do viên Trưởng Ty đưa lại. Hồi đó người bị giữ đã ở được cả năm yên ổn, không chuyện gì xảy ra, nên nhân viên lo việc canh giữ ỷ y, tối bữa trước bỏ đi xem cải lương rồi về ngủ với mèo bỏ mặc người đàn ông và người đàn bà được tự do. Hai người dùng lưỡi dao cạo cắt mạch máu cổ tay và khi nhân viên canh giữ trở về họ đã chết lâu. Người đàn bà trẻ đẹp mặc áo trắng vài – người kế cận nom thoáng thấy, lúc từ xe díp của viên Trưởng Ty Công An bước xuống – có lẽ là tình nhân của người bị giữ tận ngoài Hà-nội tìm vào. Do vụ này viên Trưởng Ty Công An phải đổi khỏi tỉnh, bán rẻ căn nhà cho má Diệp. Nhà khóa cửa bỏ trống cho tới hồi di cư Hiệp và Thuận đến mướn.

 

Chị Thuận. Chị Thuận. Trí đây. Sau cánh cửa kia là cõi chết, tôi không bước vào được. Tôi đứng ngoài, dán mình vào tường, ướt như chuột, trong đêm mưa giông tháng mười. Tôi dọng thình lình vào cửa, lay khắp mọi cánh, kêu gọi tuyệt vọng: Chị Thuận, chị Thuận. Ba bốn giờ sáng, mưa tạt trôi tiếng gào của tôi. Ngay phút ấy tôi chưa hay biết gì hết, tôi chỉ nhập vào sự sợ hãi tăng dần thành kinh hoảng do tưởng tượng dồn đẩy, tôi không ngờ Thuận ôm ghì cái chết quằn quại với bao nhiêu đồng lõa. Chị Thuận, chị Thuận. Cửa không mở, không khi nào mở nữa, nó khép lại những gì tôi muốn nhìn. Không còn ai sau đó. Hiệp, Thuận và Diệp.

Tôi trông từ xa mái ngói nâu xuôi dốc thản nhiên như một khoát tay không nghĩ. Trong thời gian Hiệp và Thuận trú ngụ, cửa ngoài cũng ít mở. Trong ngày một lúc vào buổi sáng, người qua đường có thể thấy Hiệp ngồi uống trà, hút thuốc lá, đợi giờ đến trường nơi bàn tiếp khách giữa nhà; một lúc buổi chiều mát Thuận hé cửa đón thêm ánh sáng để làm việc, chị ngồi trước bàn máy may bên cửa vào buồng trong, dáng nhìn nghiêng im mỏng. Mỗi lần từ Sài-gòn về ghé thăm, tôi ngập ngừng trước thềm, ngại khua động vào sự trống trải. Hiệp và Thuận có hay vắng mặt, nhà không ghi một dấu hiệu. Ngó qua cửa sổ thấy tường vôi trần không tranh ảnh trừ tấm lịch sơn màu đỏ thẫm chỗ bàn máy (một nhánh lau gầy mầu vàng không nền, bóng, trơ vơ); đồ đạc gọn ghẽ, giản dị: bàn ghế mộc, máy may với chiếc ghế đẩu, cái ghế vải bố xanh dựng bên vách. Căn nhà như vẫn không thuộc về ai, lần nào tôi cũng cảm tưởng đứng ngoài vòng thân mật của sự vật. Tôi ngồi trên những cái ghế nhẵn trơn, mặt và lưng ghế dốc cong, tay tựa cứng uốn lượn rõ rệt, ngó mặt bàn tròn nổi vân, những mảnh tường xanh, khuôn mặt, dáng dấp, cử chỉ của chủ nhân, ngó mãi và gặp toàn ảo giác. Hiệp và Thuận lẩn khuất bên nhau giữa sự lặng lẽ đắm chìm như những sự vật được bỏ không, ngăn nắp, sạch sẽ. Ngoài đường hiếm xe cộ qua lại, lâu lâu một chiếc thổ mộ lọc xọc leo hoặc đổ khúc dốc ngắn trước nhà.

Thuận chết ở buồng trong, nơi đó tôi chưa một lần đặt chân tới. Tấm màn vải hoa, những chùm cúc vàng nhạt, buông rũ che khuôn cửa, Tôi thường tưởng tượng, và nghĩ chắc đúng, nơi chốn riêng biệt của Hiệp và Thuận. Gương rộng nệm phẳng như không có người nằm, bàn viết lớn nặng khó xê dịch, cái tủ đứng không gương soi (tại sao không gương soi?) và những khoảng trống thừa dành cho hai người di chuyển không vấp đụng nhau. Một cửa sổ mở ra sân, nhìn lên khoảng trời với đỉnh cây rậm như rừng, hàng cây trên con phố thuộc khu đồi sau lưng nhà. Sân hẹp và sạch không bể chứa nước, chỉ có một chiếc “phuy” đen trát hắc ín cao ngang tầm ngực (Thuận phải kiễng gót mình múc nước, mái tóc trễ lệch một bên những đêm mùa hè sáng) bên mấy chiếc thùng thiếc mỏng xếp hàng đều đặn. Một buổi chiều mưa lớn tôi đã được bỏ ngồi ngoài bàn khách một mình trong khi Hiệp và Thuận vào nhà hứng nước. Cái máng xối di động hắt nước ầm ầm xuống đáy thùng mỏng. Vào những tối mùa khô Hiệp và Thuận xếp thùng trên chiếc xe gỗ bánh sắt, tự tay đẩy xe đến nhà ông pháp chuyên nước về dùng.

 

Con đò quay ngang mũi, rời bến chợ. Vào đầu mùa trái cây, thuyền san sát trên bờ, chất đống những cần xé măng cụt, sầu riêng, chôm chôm, mít… Chiếc xuồng bảy lá rộng thênh với hai người qua sông – một thanh niên dắt theo chiếc xe máy mới gắn đèn lớn nhô cổ dài trên tay lái – quay mũi về phía quán nổi. Quán cây, rào lan can thưa trông đủ bốn mặt, những nhịp hình chữ nhật với hình chéo góc, cái bàn trải vải ny - lông xanh đỏ chưa có khách, bốn mảnh mái chụm vào nhau trên đỉnh. Buổi chiều đã nhẹ lắm sắp sửa tan nhanh. Từ thành lính trên dọi đất, chỗ sông tỏa vòng, vang hồi kèn đồng rời rạc, khúc âm thanh vàng xỉn như nắng. Đường dọc bờ sông cây thẳng tắp duỗi ra ngoài châu thành, vượt khỏi cây cầu ngắn trên một lạch nước cạn mặt nhựa hóa thành đất bụi đỏ, nằm dưới chân đồi um tùm đất các công thự trong tỉnh. Bên sông lẩn sau hàng dừa nước chi chít, nhấp nhô chuyển động chiếc xe đò muộn trên con đường liên quận.

Sông lớn hiền lành. Không còn vẻ hoang vu sắc bén trong những trưa ngút nắng đứng đợi đò, mặt nước chói như tấm gương lớn, bờ lởm chởm trần lấn những bụi ô rô dằng dặc như điệu “vi dầu, hò ơ” của má tôi ru đứa cháu ngoại đẻ hoang trong trái bếp. Không còn là nỗi sợ hãi trong đêm giông, nằm một mình nhà trên kế cửa sổ, thân thể lột truồng, cuốn trong mền và giấc ngủ xao xuyến đâu đâu đâu; nghe gió từ cuối sông trở ngược thổi băng qua đồng trống, đập các tàu lá dừa, đám cây ngoài vườn, cùng tiếng nước ào ào miên man, tưởng sông chảy siết biến dạng, muốn lụt ngập trôi phăng cả vùng vườn tược nhà cửa. Cảm giác tiêu tan trong dòng cuồng bạo của tạo vật, cơn dục trơ trọi đốt cứng thân xác. Mai sáng trở dậy, nhà sạch ẩm cũ, đất cát mềm đi, lá cây rũ nước, nước tuôn đầy bốn phía, trong các mương lạch. Thân xa lạ như trời nhờ nhờ dục khói trên đồng. Tôi thả tay xuống nước, ngập đến cườm tay. Tuổi trẻ trôi mất như dòng nước nhờn luồn qua các kẽ ngách, chỉ để lại cảm giác ẩm và chịu nặng. Tuổi trẻ ở lại khuất sau cái chết của Thuận, cái chết của Diệp, và cơn mù mịt của thần trí (một vùng nín thinh tuyệt đối) từ đó tôi bị thảy trả ôm theo sự tĩnh mịch khuya khoắt.

Bóng tối đang bôi nhòa cảnh vật trên bờ sắp tới, dìm dần nó xuống thấp ngang với mặt nước. Tôi vẫn còn đang ở giữa sông. Tiếng mái chèo tạt nước ì ụp. Người thanh niên bấm vài tiếng chuông xe máy kêu chơi. Sau những ngọn cây đang nhỏ dần, điện châu thành thắp lên từng chập đẩy xa những phố tối dưới chân đồi. Khu chợ nhấp nháy đèn khí của những xe quán. Ánh điện lưng chừng ngọn cây, quay mặt vào phố, sẽ sáng dần lên mãi rồi từ từ nhạt bớt theo đêm và lênh đênh. Đêm nào, tôi cũng tông cửa chạy cuồng dưới mưa trong sức thôi thúc vô phương hướng. Trên đường đất trơn trượt men theo lạch nước như roi quất vào mặt, tôi chỉ còn là những vung vẩy của tứ chi và hơi thở dồn đứt. Tôi nhảy xuống nước lội. Không phải con sông này, hiện giờ nước lặng và nghiêng sánh. Con sông kia như một vòng tay lạnh lẽo, dữ tợn choàng siết lấy mặt mũi với sức mạnh tàn bạo của trí nhớ ấu thơ. Lội khỏi bờ vài mươi thước, tôi thả ngửa, hớp những đám mưa phủ xuống mặt. Mày là Trí, mày là Trí. Mày không điên đâu. Tôi không thể nào điên được thì đúng hơn. Trở lên bờ, nghe tiếng má tôi và chị Lệ kêu hò sau đám mưa kín như lưới khít, những khoảng vườn xa, dưới nền trời nhạt như sắp rạng: chạy về núp trong lỗ chó ngoài rào. Mày đâu, Trí? Chuyện chi vậy Trí? Con sao đó Trí? Tôi ra ngoài sông tắm. Má khỏi lo, tôi không điên đâu. Để cho tôi ngủ. Ra sông tắm giờ này? Trời đất ôi. Xức dầu đi con. Má liệng đó cho tôi, Tôi ở truồng mà. Tôi co quắp thân mình trong mền, tứ chi bải hoải. Mùi dầu cay nóng làm ứa nước mắt, nỗi hư không ghì siết, vây bọc. Mưa mỗi lúc một thêm dữ. Con sông xô trườn ngoài xa, tuôn vào giấc ngủ. Mày là Trí, mày vẫn là Trí.

Con đò trôi chậm, xuôi theo dòng chênh chếch. Người lái thuyền thân ngả trên nền xám nhạt của khoảng không, đưa đẩy theo nhịp chèo. Người thanh niên đứng giữa lòng thuyền, chốc chốc lại bấm chuông, lắng tai nghe. Tôi ngồi đầu mũi, cầm ống lon méo mó múc nước trong sạp trút ra sông.

Người thanh niên, vác chiếc xe máy lên vai, dẫm trên những miếng đá lún ngập dưới sình làm lối lên bờ. Hắn đặt xe xuống đất, thót lên yên, chiếc xe loạng choạng chao nghiêng, hai chân đung đưa tìm bàn đạp; lấy được thăng bằng, hắn đạp mau vào con đường hẹp giữa những bụi cây. Tiếng chuông xe rối rít, bình điện quay sè sè theo vòng bánh, dây sên nhấn trên mấu răng cưa, ổ líp bỏ lơi, tắt lần sau lối quanh.

Gà đã lên chuồng, chỉ còn nghe tiếng lục cục trong ức, ổ rơm lạo xạo. Thấy người qua, đàn chó rút vào trong rào sủa ran. Đèn dầu tù mù như tiếng nói động trong các nhà. Bóng tối loãng nhạt từ ngoài đồng và sông trống lùa vào đặc sệt trong vườn tược giữa mùi hương nồng pha trộn của cỏ bãi bùn đất, kinh lạch. Đâu đây vẳng tiếng máy phát thanh, giọng xướng ngôn viên đều đặn, trung lập, tạo nên chuỗi tiếng động lạ hoắc. Trong đám dừa nước đan kín lọt một vài khe sáng kỳ lạ như bên kia con lạch còn là ngày (ngày của một thế giới khác). Con đường này không dẫn tôi trở về, tôi đi ngang qua thêm một lần nữa trong đời. Lần chót, phải không ?

Đầy cánh cửa rào, đi trên những viên gạch vuông xếp lối hàng một, qua sân trước – mùi dạ hương, bóng những chậu kiểng, tàn trứng cá, cây ổi thưa cành, cây mận, cây điều lá rậm – tôi bước lên thềm. Mái ngói thấp xuống sau lưng. Tôi dừng nơi ngưỡng cửa, thanh gỗ chắn ngang đụng ống quyển. Từ cõi chết trở về tôi đã đến nhà. Ánh đèn le lói dưới nhà ngang, trên nhà im vắng. Tôi gõ nhẹ mấy tiếng lên cửa. Vệt sáng trên thềm sau lung lay, chuyền động. Ngọn đèn giơ cao xuất hiện trong khung cửa tỏa sáng về trước, đẩy lui khuôn mặt của má tôi vào bóng mờ.

– Ai ngoài đó ?

Giọng run rẩy như ngọn sáng. Tôi cố gắng thốt : Con, Trí đây má. Cánh cửa mở, tiếng khô kít kéo dài, tôi nheo mắt, ngọn đèn soi lên ngang tầm mặt.

– Ủa, con. Trí.

– Má tôi né sang bên nhường lối. Bà lắp bắp: Con, Trí, con ở đâu về tới ? Tôi bước vô, đi vào quãng trống nằm trong bốn cây cột giữa nhà. Và tôi đứng trơ, không nói cũng không nghĩ. Má tôi đặt cây đèn xuống bộ ván bên cửa và bà ngồi ngay xuống nức nở. Ngày trước khi cha tôi chết, tôi bảo : thôi má đừng khóc nữa, má tôi nín ngay lúc đó. Bộ ván cập kênh, ngựa đặt trên mấy miếng gạch bể, nơi ấy xưa là chỗ nghỉ của bà và chị Lệ. Trong góc chéo đối diện với bộ ván là khu vực riêng của tôi. Giường sắt hẹp một người, cọc mùng cao lênh khênh. Bàn học, sách vở vẫn xếp thành chồng gọn gàng hơn trước. Ngoài cửa sổ, cây vú sữa lá dầy. Những vật ấy thuộc về tôi, không chút xê xích thay đổi trong khi tôi vắng mặt. Giả thử tôi đã chết hoặc mai kia tôi sẽ chết, sự hiện diện của tôi vẫn còn đó. Tôi đã tạo dựng được nó giữa những người thân, bằng độc đoán, tàn nhẫn ích kỷ. Những sự vật ấy vững mạnh vô lối như cuộc hiện hữu côn đồ của tôi. Bên bộ ván, trên cái tủ gỗ sơn đen chắc chắn đựng quần áo, vật dụng hàng ngày, đặt bàn thờ cha tôi. Phần đất của tôi từ cửa sổ đến cửa ngoài, không đồ đạc, trơ hai chiếc băng dài đặt sát vách không dùng đến. Không ai đi qua cửa trước, qua gian trên này, trong mấy năm gần đây, trừ tôi. Khách tới thăm má tôi hay chị Lệ vòng theo lối ngoài vườn vào nhà ngang. Tôi sống biệt lập nghênh ngang, vây kín thế giới của mình trong vòng cô đơn dữ dội.

– Chị hai đâu má?

– Nó xuống dưới xóm Đình.

Tôi tới ngồi trên giường của tôi. Má tôi đưa cánh tay áo quệt nước mắt. Bà gài cửa, bỏ xuống nhà dưới. Cây đèn để yên trên bộ ván, ngọn sáng chốc chốc phựt lên nhún nhảy. Lát sau bà trở lên, mở tủ kiếm mùng mền xếp lại dưới chân giường cho tôi.

– Con ăn cơm chưa?

Bà lén ngó tôi, hơi lùi về sau, chờ phản ứng của tôi : Cơn nóng nảy thình lình phát ra những tiếng la ngắn, những câu đáp cộc lốc. Tôi chỉ nhíu mày rồi mỉm cười. Bà ngạc nhiên, vịn vào thành giường, bóng của bà mờ mờ ở sát ranh giới của thị trường, không còn đè nặng như ngày trước.

– Con về ở luôn nhà há?

Không. Tôi từ cõi chết trở về, không phải để ở lại. Không phải để ở lại. Thân tôi đã trống vắng, mù mịt không còn một hối thúc hay quyến luyến nào ngoài cơn gió triền miên của một vùng đen đặc hun hút. Có lẽ má tôi cũng rõ, bà đã biết mất tôi từ lâu. Bà im tiếng, thở dài, gượng cười.

– Tại sao con không về nhà, không báo tin về nhà? Hay tin má với chị Hai con có lên kiếm nhưng con đã đi mất...

Tôi không trả lời được. Sự thật tôi cũng không thiết nhớ những ngày ấy tôi đã làm gì, tôi đi đâu. Cái chết hụt bôi trắng một quãng ngày tháng, tôi chỉ còn tôi, một cõi hư vô rung động. Mày không điên nổi, nếu mày điên mày sung sướng biết mấy. Tôi chú mục vào bức hình bán thân của Thuận lồng khung còn nguyên vị trên một chồng sách. Người đàn bà đang nhìn thẳng và xa như muốn bắt gặp những vật khuất sau lưng kẻ đối diện. Mái tóc đen mướt không uốn ôm khuôn mặt thuôn nghiêm trang kín đáo. Tấm hình này tôi bắt gặp trong một cuốn sách mượn của Hiệp và giấu lấy, màu thuốc phai lợt trông như bức chân dung họa bằng chì than.

– Tội nghiệp con Diệp. Má thương nó. Ba má nó đã đổi xuống lục tỉnh.

Tôi vẫn nhìn người đàn bà trong hình. Lúc lâu thị giác mỏi mệt nhập nhòa, giật mình ngó lại, má tôi đang quay lưng đi xuống nhà dưới. Tôi còn lại cô đơn, những ý nghĩ đáp xuống mặt buồn bã rồi vụt bay đi như những bóng chim nhỏ lao nhanh trong buổi chiều chạng vạng.

 

Trước đó vài phút, bầu trời xanh thoảng, len giữa những đám tối trong vườn màu lửa lưu huỳnh chấp chới, Và con trăng đầy mọc. Vùng chân trời đỏ ửng nhô lên một chúm cầu dần dần thành hình chiếc dù không bị hút xuống mặt đất mà bồng lên không, thành quả bong bóng hơi màu cam. Lên cao chừng ngón tay con trăng khựng lại. Cánh đồng bên kia lạch nước bật sáng trắng, nước dưới lạch chảy thao thiết hơn.

Căn nhà đã yên ngủ trong bóng vườn cây phủ quanh như ngôi nhà mồ. Bốn bức tường ẩm quanh năm, mái rêu phong cũ như chùa cổ, nền gạch tàu đỏ hỏn vì chùi rửa mỗi ngày, không khí giam hãm giăng tấm lưới của tình yêu đan kết bởi hai người đàn bà góa bụa chụp xuống tôi như một con mồi ngon. (Con thú vùng vẫy phá phách). Tôi đứng ngoài. Trăng sáng rỡ như một hiện tượng kỳ lạ tôi chưa hề được thấy lần nào. Sự lan tràn xao xuyến của tạo vật bủa vây. Hạnh phúc mềm mại vuốt ve các giác quan. Hạnh phúc đột ngột hé mở vòm cửa bất trắc, biếc và vắng. Hạnh phúc thiết tha chới với như giọng hát đang ngân lùa thời gian vào trong mình rồi tắt chỉ còn âm vang. Hạnh phúc vô lý không nên có, khích động sức hủy hoại ngầm dưới đáy thân, tôi đã từng từ chối quyết liệt. Có lẽ mỗi định mệnh thắt chặt từ đó. “Anh kỳ cục lắm. Anh sợ hạnh phúc” “Phải anh sợ hạnh phúc” “Anh không sợ, nếu anh yêu em” “Anh yêu em, anh yêu em. Nhưng anh sợ” “Không, anh không yêu em. Anh muốn được chết trước em mà”. Diệp, Diệp, tôi tự dưng kêu khẽ,

Tôi đứng bên bờ nước, bị thôi miên trong sự huyền hoặc của ánh sáng và hình thể quanh mình, không còn sức chống cưỡng. Sức mạnh vẫn thôi thúc tôi ngày trước đã liệt. Gió thổi là tới từ những bãi cỏ đồng, qua mặt nước đang dâng. Tôi yên tĩnh nghe hơi thở, tự khử mình vô tri giác như một thân cây trong vườn (Những bước tạo vật mơ hồ qua thân thể.) Đột nhiên, tôi nghe rõ tiếng má tôi khóc dấm dứt trong nhà, nghe rõ sát bên tai, bàng hoàng và tôi vẫn đứng trơ cho đến khi chợt thức. Tiếng khóc đã nín lúc nào.

Một tiếng kêu tan trong luồng sáng đang chảy. Vài giây sau tôi quay mình ngó lại. Chị Lệ bồng con khuất dưới bóng cây vú sữa, đứa nhỏ gục đầu trên vai mẹ, chiếc áo bà ba trắng ngần. Khuôn mặt chị là một vệt sáng bầu dục trong bóng mờ của tàn cây.

– Phải Trí đó không ?

Chị sang tay, đổi vai gối cho con. Đứa nhỏ bị động, khẽ rên trong cổ, chị ấm ứ trong miệng điệu ru không thành lời, đợi cho đứa con im ngủ lại mới lặng thinh. Chị đứng một chỗ hướng mặt về phía tôi, đưa cánh tay rảnh lên cao trong dáng ngập ngừng bối rối. Có lẽ chị vuốt tóc, nhưng tôi chỉ trông thấy một vệt trắng dài cử động.

– Trí về hồi nào ?

Chị tiến vài bước tới chỗ thoáng dừng lại, khoảng cách giữa chúng tôi là độ dài của sự nín lặng đang rung. Dưới ánh trăng chị hiện rõ, đầy đặn yên tĩnh. Cặp mắt chị hút lấy những ánh xanh ướt. Tóc chị cắt cụt, mọc bờm xờm tới gáy, chiếc khăn đội đầu chị giữ trong tay. Chị đã xuống tóc để cầu nguyện cho đứa em trai được bình yên vô sự, tôi biết như thế, như hồi xưa khi tôi bị tù. Mái tóc của chị mềm ướt, óng ả, đẹp nhất xóm lúc tuổi con gái. Trông chị với mái tóc ngắn như một bà cốt trẻ đẹp trần tục và ma quái.

– Thôi chị vô nhà cho con Liễu ngủ.

Chị xoay mình chậm chạp, hy vọng tôi cất tiếng, bước ríu ríu đạp lên bóng mình. Chiếc bóng nhỏ bị nuốt vào trong gian nhà ngang. Chị không đốt đèn, mò mẫm trong tối. Tôi không chủ ý vẫn nghe những tiếng rõ rệt phân biệt. Má tôi còn thức. Chị Lệ ru con khi đặt nó xuống ngựa, má tôi ho húng hắng. Im lặng bốc lên theo vùng xôn xao của cây cỏ côn trùng. Tiếng nước sối rửa chân bên hàng hiên, tiếng guốc đi trên nền đất. Tôi nhìn suốt tôi như một kẻ khác đứng giữa bóng đêm biếc như một khối pha lê.

 

Buổi mai thơm ngát ngoài vườn, nền tím hư ảo chập chờn cuối tầm mắt. Bóng lá động đậy trong khung cửa sổ như một đường vòm sâu trong rừng sáng. Tiếng động loang trong xóm, xe gắn máy nổ ròn về phía bến đò. Má và chị Lệ nói chuyện tuốt đâu dưới nhà bếp. Tôi nằm im trong thấp thỏm rũ liệt, cố nhìn trước mọi cử chỉ sắp tới khi trở dậy.

Con Liễu mò mẫm dưới chân giường, tay quờ níu mùng. Nó bám vào mép sắt, lần đi mở mắt nhìn qua màn vải thưa. Cặp mắt dài, ướt, trong, Liễu nhoẻn miệng cười giống như mẹ nó. Tôi vén mùng chui ra, buông thõng cẳng, ngó con nhỏ. Tôi đưa tay muốn kéo nó đến gần, nhưng nó thụt lui không rời mắt tôi, miệng mếu máo mỗi lúc thêm rõ. Chập choạng con nhỏ buông tay khỏi gióng sắt mép giường, té ngồi xuống gạch òa khóc.

– Má đây. Má đây. Coi kia, cậu ba con đó. Cậu ba con đó mà. Chị Lệ bồng con lên, vỗ nơi lưng nó, lặp đi lặp lại : cậu ba con đó, cậu ba con về đó.

Tôi gượng cười, bỏ xuống nhà rửa mặt. Chị Lệ nói: Thôi nà... thôi nà... đề má cuốn mùng cho cậu ba. Má tôi lúi húi múc nước dưới mương tưới mấy bụi bạc hà và xả nơi góc vườn. Tôi nhìn lên ngọn cau để khỏi nhìn ai. Cuộc hành trình đã đưa tôi đi quá xa, lạc hết mọi người. Tôi không thể nào bảo cho mẹ tôi hay rằng tôi về nhà lần này là lần chót và sau đó tôi sẽ biệt tích. Biệt tích mãi mãi mang theo nốt những khoảng trống tôi đã đào bới trong nhà này.

Đã bao nhiêu lâu nay, tôi cũng đã biệt tích rồi, tôi ở chỗ khác. Gia đình đối với tôi là nhà tù, bóp nghẹt mọi khát vọng bằng những bàn tay dịu dàng chăm sóc. Những người thân bao vây với mớ yêu thương bủn xỉn của họ khuấy rối chân trời viễn vọng của tuổi thanh niên. Tôi cưỡng chống bằng cách trốn lánh ẩn giấu mọi cảm tình.. Nỗi kinh hoảng chết đuối trong ao vũng hạnh phúc, dìm ngập cuộc hiện hữu độc đáo tôi mơ mộng, tạo những thói quen, phản ứng bất mãn hằn học xấc láo trong cách cư xử, dựng bức thành phân cách với kẻ xung quanh. Những vách dày của mặc cảm nhốt chặt khó thở, tôi trở thành hung bạo vô lý. Những cơn điên tỉnh táo ngắn, nối tiếp mối ân hận luyến tiếc (vòng tròn miệt mài không hở) đục rỗng bản ngã. Trước mắt má tôi và chị Lệ, tôi là kẻ xa lạ, độc đoán, ích kỷ, sống trong nhà như một khách trọ nhiều uy quyền. Tôi xô dồn hai người thành những cái bóng, những cái bóng khó chịu, vướng víu. Những người thân phải ra khỏi thế giới của tôi, cuộc hiện hữu khốc liệt đòi sự tự hủy của những hiện hữu kế cận, thâu gồm mọi tự do cho riêng mình. Họ sợ sệt quanh quẩn dưới nhà ngang, ngoài vườn với những con vật thân tín. Tôi chiếm ngự gian trên với một người chết - cha tôi. Lúc nào tôi cũng chỉ thấy mình, chỉ nghe vô vàn thứ tiếng hỗn độn trong vùng hư không ẩn giấu trong mình.

Cha tôi chết vì cuồng trí. Tôi luôn luôn lặp ở trong đầu : mày không điên, mày không bao giờ điên được. Thường ông uống rượu vào giấc chiều trong bữa cơm. Khi vợ con đã rời khỏi mâm, tản mỗi người mỗi nơi, ông còn ngồi ngây trên ván. Rượu bắt đầu ngấm, mặt ông tím xám, mắt trương lồi như sắp lọt khỏi tròng ngó tới một điểm cố định, dường như ở đó là khe hở của một thế giới nào khác. Ông không nói năng hay la ó gì hết, rồi sau ông leo lên võng ngủ, giấc ngủ lúc chạng vạng. Bữa kia nước mắt chảy ròng từ tròng mắt bất động như hai con ốc chết trong chén nước mắm. Tôi kêu : Coi kìa, chị Hai. Tía khóc. Chị Lệ lôi tay tôi ra ngoài vườn đứng dưới gốc mít. Buổi chiều hấp hối trên bốt canh mới mọc, đám cây cỏ ven sông được phát quang, những rào kẽm gai lăn tròn như con trăn lớn. Đôi khi ông leo lên võng, bất tỉnh sùi bọt mép. Mấy người đàn bà lăng xăng cứu cấp. Tôi ngủ chung với ông kề bên một làn hơi nóng lộn mùi rượu, mùi dầu cù là ; và hơi thở khò khè tắc nghẹn. Một đêm ông bật khóc nỉ non. Tiếng nức nở bị kéo níu vùng vẫy làm rúng động cơ thể từng nhịp như mắc chứng kinh phong, truyền lan sự khiếp hãi kinh dị qua ván gỗ dày lạnh ngắt. Má tôi mời thầy pháp về bắt tà. Đèn nến thắp giữa sân khuya, đám đông hàng xóm bao quanh và vùng tối đen cây cỏ ngoài đồng như gần tới. Chiêng trống xập xòe lẫn với những câu thần chú và tiếng hú man rợ của ông thầy ăn mặc dị hợm : đầu đội khăn, thắt lưng đỏ, cắm hai cây cờ bắt chéo phía sau. Người bệnh ngồi xếp bằng trên ván trong nhà, nhìn qua cửa sổ, miệng cũng làm xàm không dứt. Đột nhiên người bệnh xuất hiện ngay trên thềm sau bàn thờ cười khạch khạch tiếng cười vỡ đục như miểng sành. Thầy pháp trỏ tay, bắt ấn, quát lớn. Người bệnh vùng quơ tay nhào tới, mọi người túa chạy như Tâv vô làng. Ông xách dao rượt thầy pháp chém loạn đả vào bờ bụi và ngất xỉu dưới mương. Từ đó hằng đêm, tiếng khóc lẫn tiếng cười mỗi ngày thêm dài lâu đến đứt hơi. Ban ngày, trưa nắng, ông leo lên nóc nhà, xé toang áo quần, râu quai nón tua tủa, ngồi chắp tay niệm Phật. Cuối cùng trong giờ giới nghiêm, ông phá cửa, chạy ra sông nhảy lội về phía đồn Tây. Súng trên bốt bắn xuống. Đầu ông nổi dập dình trong vùng đèn pha sáng quắc lờ đờ. Vợ con trốn trong bụi cây ven bờ kêu la. Tía ơi. Tía ơi... Xác hai ba bữa sau, nước rút trôi táp vào con lạch sau nhà.

Những ngày tháng chật chội, nhiều lúc tôi muốn điên như ông, vùi dập thế giới vào hư vô, tự trầm xuống vực tối tăm cuốn xoáy. Nhưng không thể được, cho đến mãi mãi không thể nào tôi điên được. Anh khùng, anh khùng lắm, Diệp bảo. Anh muốn điên. Điên như một cơn bão trong đêm trên đồng hoang. Sự xóa trắng những ngày tháng cũng là lối thực hiện của ý thức tự phủ che. Tôi tỉnh hoài và tôi làm ngơ. Và tôi trở lại chốn cũ, (không phải, không phải là đứa con hoang đàng hối lỗi), để hồi tưởng Định Mệnh. Bởi tôi phải sống hết Định Mệnh của tôi.

 

Khi bồng được con Liễu lên tay, nhìn đôi con ngươi đen láy, hơi thở thơm tho của nó phì phà trên má, tôi không biết phải làm gì nữa. Bàn tay bé nhỏ bóp nắm vành tai tôi nhột nhạt, tôi bắt cười sặc: nhột quá mày. Má tôi và chị Lê nơi góc nhà ngó tới chằm chằm, nửa mừng rỡ vì sự vui vẻ hiếm có của tôi, nửa lo âu sợ tôi như thứ quái vật có thể làm hại đứa nhỏ. Sự ngạc nhiên trân trối của người lớn cùng tiếng la lớn của tôi khiến con Liễu khóc ré, ưỡn người đạp căng đòi thoát khỏi tay bồng. Tôi trơ khấc như thân cây, không phản ứng. Chị Lệ sáp tới đỡ lấy con rơi vào ngực mình.

– Cậu ba thương con đó mà........... cậu ba thương con mà...

Tôi nín câm như hòn đá, bỏ ra vườn. Tôi sẽ như thế trong những ngày ở lại trong nhà. Im lặng buông thả như len lách thầm thì đến với sự vật và ôm ấp chúng trong sự trìu mến không biểu tỏ. Tôi nhìn ngoài trong thời khắc đợi chờ những lối hoang mang của kỷ niệm. Kỷ niệm ? Không phải. Tôi không có quá khứ, tôi chỉ có một cuộc hiện hữu vẫn vang ngàn như những làn sóng đùa tới. Mớ cảm giác, ý tưởng vẫn còn rung, không mang dấu thời gian. Tôi thả trôi trong hiện tại dập dềnh, những ngày thảnh thơi vô định, giữa cảnh vật dưới bầu trời không thay đổi quen mắt. Quyết định sắp tới giữ chặt trong trái tim rỗng tuếch chưa muốn cho trồi lên.

Con đường đắp nứt nẻ quanh vườn, những rễ dừa trườn ngang. Con mương nước váng Cây cầu khỉ rung rinh trên lạch. Lối mòn cỏ phủ dẫn ra đồng, bầu trời nhờ nhạt của mùa mưa sẽ tới. Đầm vũng cỏ gianh cỏ lát, những đàn le le đã bay đi, mấy tháng nắng chúng bay về đây cả ngàn con ngủ trong đầm, chiều tắt nắng liệng rợp trên đồng cỏ, tiếng kêu ríu rít hỗn loạn. Buổi sáng bàng hoàng tan mau mang theo những vùng tưởng tượng của tâm trí. Vài buổi sớm, tôi ngược con đường xóm ra bến đò, đứng lại trên bờ. Đất lạch bốc dưới gốc hàng dừa nước đắp lên dẻo và đen. Cửa lạch chảy ra sông vẫn in dấu chân người trên sình lầy khi nước cạn, Tôi nhìn mặt nước êm ả. Châu Thành xa khuất tẻ lạnh, câm nín. Sự im lặng di chuyên tôi đến sự vật, đời sống. Tôi chợt nghĩ nếu không bao giờ tôi vượt sang đó, tôi chỉ lớn lên trong xóm đồng này, tôi sẽ có cuộc đời khác. Tôi không là Trí, tôi sẽ là cậu Ba, thằng Ba, chú Ba, dượng Ba, anh Ba... Trí, Trí. Nhiều người gọi tôi bằng cái tên ở đây không ai biết. Tôi không còn là đứa con của cha mẹ tôi nữa, tôi sinh ra từ những người khác, (Những người đâu đâu tôi không hay biết).

Tôi nhớ Diệp, nhớ những phút cuối cùng trong cuộc phiêu lưu của chúng tôi. Tôi đã lôi cuốn nàng vào trong cơn điên tỉnh thức. Nàng dại dột biết chừng nào. Diệp, phải không Diệp ? Em là người tình, khuôn mặt của cái chết. Tại sao tôi lại được cứu thoát? Tại sao người ta gỡ tôi khỏi tay Diệp ? Buổi mai nhờ tối không khi nào lui thành dĩ vãng. Khuôn mặt xanh xao đau yếu của Diệp, sau đêm mưa lũ, hốt hoảng trong cuộc trốn chạy không định trước ra khỏi châu thành chưa thức dậy. Châu thành mù sương, tiếng vó ngựa trên đường phố ướt át, máy xe nổ hực vì khí lạnh chưa tan. Chuyến xe rộng cho riêng hai đứa, Diệp nằm gối trên bắp đùi tôi ở băng sau. Sương trên đồng, trong vườn là là khắp mặt sông nước, đón chúng tôi lưng chừng các dốc. Chúng tôi chạy tới chốn hẹn ước, chốn im lìm tuyệt đối là cõi điên và cõi chết.

Những giấc ngủ muộn chán chê, ủ trong không khí cũ xưa, như ánh nắng tàn nhạt trên đồng, nghiền nát cảm xúc thành bất giác kinh hoàng. Tỉnh dậy tôi vẫn ghi giữ ảnh tượng không thể tan nhòa, dấu tích của nhịp bước hiện sinh, nếu còn sống tôi chẳng sao từ chối thay đổi. Những cuộc gặp gỡ phát hiện bản ngã, tự do. Những khuôn mặt ghé nhìn tìm bóng dáng. Những biến cố đẩy xô tôi chọn lấy định mệnh. Hằng giờ tôi thu hình trong câm nín. Sự im lặng di chuyển tôi đến sự vật, đời sống. Tôi không còn nghe thấy hỗn độn quay cuồng. Tất cả tĩnh mịch phẳng lặng. Tôi đã đứng sau lưng cái chết và chẳng thể làm gì được. Sống là bị cuốn hút vào các thế lực ngoài mình trong nhịp hồi tưởng cưỡng chống không dứt.

 

Có lẽ chị Lệ đã có người tình mới, tối tối chị bồng con xuống xóm Đình. Phải ngày trước tôi đã nhìn hằn học nghiêm khắc, chị len lén sợ sệt như kẻ tội phạm trước quan tòa. Một buổi trưa, tưởng tôi ngủ, má tôi khuyên chị nên coi chừng, đừng chọc giận tôi, bà vẫn nhớ thái độ bất mãn khinh bỉ của tôi trước đây, mỗi lần bà tỏ vẻ bênh vực chị Lệ. Hồi ấy tôi nói: “Đừng ai nói chuyện ấy với tôi… Đàn bà khốn nạn, dâm đãng” chị Lệ cúi đầu cam chịu. Tính chị thích nói chuyện, ưa cười, tôi trả thù chị bằng cách không khi nào nói với chị trong suốt thời gian chị mang thai con Liễu và sinh nó. Lúc sau, tôi coi chị như kẻ dưới, nói vắn những lệnh sai khiến của tôi.

Chị Lệ được học đến lớp nhất, chị thông minh hơn tôi. Ngày nhỏ, hai chị em học một trường, mỗi buổi chị đều đưa tôi gần đến cửa lớp rồi mới trở lại với các bạn gái; giờ tan chị đón tôi ngoài cổng trường với những gói tầm ruộc mắm ruốc hoặc trái ổi, trái điều. Trên con đò lênh đênh ngang qua sông chị tháo kẹp tóc cho gió bay, cùng tôi vẩy nghịch nước sông và chị thường nhát tôi khi đò chông chênh giữa dòng. Chị lớn hơn tôi bốn tuổi, học hơn tôi hai lớp. Năm mười bảy, tóc chị xức dầu dừa, áo túi trắng nõn, chị yêu anh Tạc, viết những lá thư tình dài trên giấy mỏng xanh, mỗi lần chị đều đọc cho tôi nghe trên bàn học những buổi tối. Anh Tạc đi bưng kháng chiến, thư anh gửi chị viết trên những mảnh giấy ô vuông xé trong sổ tay, chữ viết chi chít, chị khoe với tôi. Tôi nhớ một câu: Yêu em anh không thể nào chết được, anh sẽ trở về. Tôi không biết mặt anh Tạc, nhưng những lá thư của chị Lệ cũng làm tôi yêu anh. Thỉnh thoảng chị Lệ xin phép má xuống tận Chợ-lớn gặp anh Tạc trong những dịp công tác ghé về thành. Chúng tôi dậy sớm, nắm tay nhau ra bến đò, đường xóm còn vắng những buổi mai dài trên bài trời hư tưởng. Toi đứng lại trên bờ, nhìn chị xuống thuyền, nhắc chị cho tôi gửi lời hỏi thăm anh Tạc. Tôi theo rõi hình bóng chị nổi đều đặn trong tấm áo bà ba trắng như chiếc bình sứ trôi xa trên hàng cây châu thành. Chiều tối trở về, má hồng hào, hơi thở thơm tho, chị ca cải cách. Chị thuật chuyện ban ngày gặp anh Tạc bằng một giọng thần bí, tôi ngây người nghe. Một lần nghe anh Tạc bị bắn chết bên cầu chữ Y, chị khóc ngất mấy ngày đòi tự vẫn. Tôi khuyên chị: “Chị Hai. Chị phải sống và lấy chồng nữa”. Năm anh Tạc tập kết, chị xuống Cao-lãnh vào trong khu cả tuần lễ. Tôi tưởng chị đã theo anh Tạc luôn. Về nhà chị buồn bã hết mấy tháng. Nhưng một năm sau anh Tạc đi, chị mang thai. Con Liễu sinh ra theo họ mẹ, tôi không biết cha của nó và tôi cũng không muốn biết. Tôi không thể hiểu được sự phản bội của chị, tôi không thể tha thứ. Tôi đuổi chị ra khỏi ý nghĩ của tôi, đuổi ra khỏi tầm mắt của tôi. Tôi lớn thoát đi một mình, muốn quên hết mọi người thân.

Bây giờ tôi nhìn chị Lệ như một người quen không nhớ rõ tên. Trong bữa cơm, chị vừa ăn vừa đút cho con Lệ, chuyện trò với má, thỉnh thoảng liếc tôi. Tôi cắm cúi, lâu lâu trả lời một câu hỏi của má tôi. Đôi khi tôi cũng nói với chị Lệ qua trung gian con Liễu. Chiều tối, tôi thơ thẩn ngoài vườn, bỏ trắng mọi cảm xúc. Tôi đi trong không khí những ngày cũ với cơn khủng hoảng rình rập. Và tôi tự nhủ: không còn gì nữa. Không còn gì đâu Trí. Tuy nhiên, tôi biết tôi không thể nín câm mãi mãi, người xung quanh không đề cho tôi yên.

Một buổi, đứng khuất trong bóng tối bên cửa sổ, tôi bắt gặp chị Lệ đi về, nhìn vào thấy giường buông mùng tưởng tôi đã ngủ, chị đứng lại ngoài cửa sổ rất lâu, đứng đó như một bóng ma hiện hình. Trăng không còn mọc sớm nữa, nửa khuya sực tỉnh tôi nhìn qua song cửa, ánh sáng vằng vặc của con trăng muộn màng, tưởng còn ngó thấy bóng dáng của chị. Tôi nhớ đến những ngày khi chị Lệ đã thôi học, tôi cắp sách một mình sang trường, những buổi cùng một hai tên bạn bám sau đuôi xe bò chở cỏ hay là đi xa vào các làng, hoặc chạy đuổi những chiếc xe thổ mộ trống nhảy đứng một chân trên bàn sắt ra ngoài châu thành, hoặc chui lên các khoang xe vận tải đi rửa ở các bến sông; tôi nằm ngửa như nằm trên đống lá của chiếc xe bò lộc cộc lăn trên đường đất, dưới các bóng tre, những buổi trưa hè; người đánh xe say ngủ không thèm để ý đến mấy đứa trẻ nghịch ngợm, lâu lâu nẹt roi chót chót vào càng xe. Buổi chiêu hoang tịch trên bến nước, khi tiếng cười đùa của mấy đứa trẻ đã tắt, chiếc xe rửa xong ì ạch không leo nổi dốc chết máy; tôi hoang mang lo sợ đêm tối sẽ phủ trùm không trở về kịp nhà; cây cỏ, đồng bãi, mấy đứa bạn, những người làm xe vui vẻ bỗng trở nên những mối dọa dẫm khiếp đảm; lúc ấy tôi nhớ chị Lệ, nhớ tiếng cười trêu chọc của chị trong vườn nhà.

Tôi nghĩ chị Lệ, những ngày qua, vẫn lẩn khuất sau lưng tôi, chị có điều gì muốn nói. Tôi chợt bàng hoàng khám phá cái vẻ đẹp kỳ quặc dưới ánh trăng trong vườn đêm trước phảng phất những nét bí ẩn của Thuận. Thuận. Tôi ngồi lên, cầm bức ảnh quẹt diêm nhìn. Không biết lúc nào, tôi đã mở khung và để cho ngọn lửa đốt cháy tấm hình. Tôi giật mình khi lửa cháy lém ngón tay, vứt tấm hình xuống đất. Ngọn lửa bơ vơ hiu hắt tàn dần như một nỗi da diết. Tôi dương mắt ngó đêm tạo vật tràn đầy ngoài trời, lắng nghe giấc ngủ của má tôi, tiếng trở mình trằn trọc của chị Lệ. Con Liễu ngủ mê, giật mình khóc, giọng ru hờ của mẹ nó cất lên. Một lúc nước mắt mệt mỏi ứa bên khóe.

Phút ấy khối băng cô độc bỗng tan, đêm xuyên qua thân tôi, dồn vào mọi sự vật hiện hữu kéo dài. Tôi cố ngoi lên trên vùng thần trí bị đắm đuối trong sự huyền hoặc của mộng ảo chất chứa những sự thật. Và tiếng khóc, từ lúc nào, bật ra từ nhịp ngắn khẽ. Trong âm thầm tôi nghe lại những hỗn độn xa xa ngoài trí não và thói quen trở lại, tôi gọi nhỏ: Trí, mày không điên đâu. Mày vẫn còn sống đó…

 

Tôi đứng trên thềm, sau lưng cánh cửa nhà còn hé mở. Ngoài sân bên vườn, trăng sáng rỡ như ngày. Dưới các tàn cây rậm gió thổi luồn mông lung. Giờ này má và chị Lệ ngủ vùi. Hai người đã phải luân phiên bồng con Liễu suốt từ hồi hôm. Con nhỏ lên cơn sốt nóng, khóc liên hồi, mới im tiếng, cách chừng mươi phút. Tiếng khóc ré cấu rứt ruột gan khiến nóng nảy bồn chồn, nhiều lúc tiếng khóc bặt ngất ở cao độ tưởng nó không thở được nữa, tay chân co quắp (một buổi chiều bên chợ người đàn bà vừa từ xe thồ mộ bước xuống, đột ngột ngã vật trên mặt lộ, tay chân giật từng hồi như đuôi thằn lằn cụt đứt, miệng xủi bọt.) Những cử động giật máy của tay chân hay toàn thân không tự chủ, tôi cũng thường bị trong những hồi lơ mơ trước thềm một giấc ngủ sâu mà ý thức giãy giụa trong khoảng mở trắng không ra thoát; sau mỗi lần nghe như mình thoát ra khỏi mình, hốt hoảng và u sầu. Tiếng hát ru nho nhỏ dỗ dành hết của má tôi đến của chị Lệ lui tới luần quần bao phủ như hơi gió bay lùa cả châu thân đầu óc. Và khi tiếng khóc cùng tiếng ru im mở ra khoảng không chập chờn của khung cửa sổ chót tầm mắt, tôi len lén leo khỏi giường, tránh gây tiếng động, thay áo quần mở cửa. Cũng như buổi sáng tinh mơ nào với Diệp, tôi không mang theo một món đồ. Không hành lý, hai tay thong thả, đầu óc ngất ngây lúc nào cũng có thể bị chiếm đoạt bởi những ý nghĩ thừa thãi. Trí. Tiếng kêu thoảng trong đầu. Tiếng gọi của chính tôi ngụy tạo hay của một người khác. Trí. Trí. Trí... đó là những âm vang từ buổi sơ sinh, đứa trẻ nghe và không hiểu gì nhưng vẫn dỏng tai. Những cái ngoài nó dần dần chụp lấy, thắt buộc, và chỉ còn những cử động vô tình là của riêng.

–Trí.

Lần này tiếng kêu vang lộng trong đầu và ngoài không trung, tiếng kêu trong sâu tối cùng với tiếng kẹt cửa sau lưng. Bóng người đứng trong khuôn cửa, mặt trắng như tờ giấy, đôi mắt sáng đen. Chị Lệ.

– Em thức sớm vậy ?

– Tôi đi dạo.

Tôi bước xuống sân trên lối gạch, mùi bông thơm hắc, chị Lệ dẫm chân đất, nói thì thào, đi thẳng tới bên cửa rào.

– Chị cùng đi với há. Con Liễu bớt nóng, ngủ rồi. Chị hết ngủ nồi ra ngoài chút xíu cho khỏe.

Tôi mở cánh cửa gỗ lung lay gần sút, quẹo vô sâu trong xóm. Một mình tôi đã quẹo về ngả xuống bến sông, qua đò sang châu thành. Nhà cửa, đường lộ trong buổi sáng đang chờ đón, buổi sáng của Thuận của Diệp, buổi sáng như cửa huyệt chôn những thao thức của đêm tối. Châu thành đó như ải địa đầu của một xứ sở khác. Chó sủa rân dọc theo lối, một hai con chui khỏi bờ rào lẵng nhẵng sau chân, chị Lê kêu khẽ tên mỗi con xô đuổi chúng. Bóng tối rậm bít, ánh trăng rớt trên đất từng vũng đọng, cây cỏ thở chan hoà. Chị Lệ dần dần bước kịp ngang hàng, lối đi hẹp chị phải tiến sát bên các hàng giậu, tay áo phất đụng lạt sạt. Cây vườn thưa lần, trời sáng lộ trên bãi cỏ, con đường, cây cầu bắc ngang lạch nước và cánh đồng trống. Tôi dừng lại bên mô dốc, con đường còn leo qua cầu đi sâu vào lối dừa nước dầy khít dẫn vô vùng bưng lầy, khoảng chúng tôi đứng trống trải. Chị Lệ ngồi trên ván cầu, buông thõng cẳng đung đưa, đầu tóc không bịt trông dị hợm. Xa tít ngoài đồng, không còn thấy mái nhà trơ trọi giữa đám cây, một giải đất cao dốc đứng trần trụi như mặt thành nằm phơi xám ngắt dưới ánh trăng.

– Cái gì bên kia đó ?

– Đâu ? Người ta lập Ấp chiến lược bên đó. Cũng sắp sang tới bên mình.

Nước chảy róc rách dưới chân cầu, chó sủa trong xóm, những con dế nỉ non đôi hồi trong các bụi cỏ quanh mô. Tiếng kẻng thưa thớt chạy vòng trên các chòi gác trong ngôi ấp dở dang. Chị Lệ thở dài nghe rõ: lại đánh nhau nữa, đánh nhau hoài. Tôi đã chẳng bảo với Hiệp sao : một ngày nào, chỗ em ở đó, chiến tranh sẽ mọc loang nhanh cùng bờ bụi hoang vu. Làm thế nào hơn ? Cậu nghĩ xem làm thế nào hơn ? Vì chúng tôi phiêu du bên ngoài những đầm lầy lau lách trong những vùng hư ngụy ngoài bở thành đất rào chống tua tủa.

– Em tính sao Trí ?

– Ít bữa, tôi xuống Sài-gòn.

– Em tính đi mần hay đi học lai ?

– Đi học lại ?

Tôi bật cười khan trước ý kiến của chị Lệ. Trở vô lớp học thật là một ý kiến khôi hài. Chị ngó lại phía tôi, mấy ngón tay chi cào cào gỡ mái tóc ngắn bờm xờm, lưng hơi khom, mặt cúi xuống dưới dòng nước đang chảy. Một con chim đêm bay kêu ngoài đồng không thấy bóng. Cảnh vật đột nhiên trở mình hoang vắng.

– Chị xin lỗi.

Chị Lệ mân mê tháo buông hai cánh tay áo bà ba xắn cao cườm tay một khúc. Tôi nhìn trở lui vô xóm, mơ hồ những tiếng động của ngày tới sớm, gió lùa từng cơn, chị Lệ bó gối co ro như đứa trẻ lạc lõng trên cầu. Da mặt tôi ướt giá. Ánh trăng đang nhạt dần, luểnh loảng. Chị Lệ tỉnh nói tiếp một câu gì nữa nhưng tôi quay lưng.

– Về thôi. Coi chừng con Liễu thức.

Tôi đợi chị vượt qua mặt, chị đi ngang thoảng một làn hơi ấm của thân cọ rung không khí. Đột nhiên tôi muốn níu giữ chị, nắm lấy hai vai đầy của chị như với Thuận và chắc chắn chị run rẩy co rút người lại thở không kịp vì sợ hãi, miệng lắp bắp không thành lời... tôi sẽ rung mạnh chị như rung một thân cây yếu, thật tàn bạo phũ phàng, rung cho đến khi chị bật khóc mới đã nư giận.

Anh Tạc không chết. Anh trở về, chị Lệ nói. Thiệt không ngờ, ngày chị vô khu tập kết, anh về Chợ-lớn kiếm chị. Chỉ là sự lầm lẫn anh còn sống hẳn hòi, mạnh khỏe; mấy bữa trước chị gặp anh dưới xóm Đình. Bữa nay anh về trên Bến Cát, ít bữa trở xuống. Chị Lệ hỏi tôi muốn gặp anh không. Gặp anh Tạc ? Điều đó còn quan hệ gì tới tôi. Anh Tạc. Anh Tạc là ai? Người anh hùng của chúng tôi, người tình của chị Lệ, những ngày mới lớn vẫn còn đó ư? Nhưng chúng tôi không còn, tôi đã lớn, tôi đã gặp Hiệp, gặp Thuận, gặp Diệp và chị Lệ bồng trên tay con Liễu. Mối tình thứ nhất của một đời người khó quên, có thật không ? Con Liễu nằm trong tay mẹ, mặt đỏ sần, mắt li bì, nó bị ban cua. Bà ngoại nó sang chợ hốt thuốc, trong nhà chỉ còn hai chúng tôi. Các cửa ngõ đều đóng kín ngăn gió nắng ban trưa, bóng mờ lúc dịu lúc sáng tủa quanh mặt chúng tôi.

– Gặp lại ảnh, chị tưởng hồn ma hiện về. Thiệt là kỳ, sợ quá chừng.

Tiếng cười ngắn gọn không rõ nghĩa. Giọng điệu của chị Lệ vẫn đượm vẻ ngây thơ trong trắng như ngày nào viết thư cho anh Tạc. Không có gì đổi thay thiệt sao? Chị ngồi cuối chân giường, thân chị hơi rung làm nệm giường nhún nhẩy. Tôi đứng dậy quay mặt ra phía cửa sổ đóng hỏi :

– Còn con Liễu ?

Câu hỏi dội lại mạnh mẽ, lập đi lập lại như trái banh tung ném vào mặt tường mỗi lúc thêm nhanh. Còn con Liễu ? Con Liễu đó ? Nghĩ sao ? Nó nằm chình ình trên tay. Hồi lâu, chị Lệ nói khẽ:

– Ảnh tưởng chị đã lấy chồng. Và chồng chị chết.

Tôi tì bụng vào cạnh bàn, ngó chăm đống sách, tấm khung ảnh trần trụi. Có gì đâu? Không ai thắc mắc, tra hỏi. Sự thật dễ tin biết mấy, sự thật hằng ngày bày ra đó. Mà còn ăn thua gì, tôi phải giận dữ.

– Chị tin như vậy ?

Con Liễu khóc ọ ẹ, chị Lệ trở thế ngồi khiến những thanh sắt uốn con lót giường kêu rít. Có lẽ chị Lệ cũng tin như thế. Tại sao không? Chị đang sống, và trí nhớ là một cản trở. Sống như một dòng nước chảy xuôi, như một ánh mây bảng lảng, phải thế không ? Phải bôi xóa tất cả trong thiên nhiên hãi hùng và trong lịch sử cuồng nộ. Ở trên những sự thật, vượt ngoài những sự thật và làm chủ mọi sự thật cần thiết. Lúc tôi quay nhìn chị Lê đã đổi tay bồng con, mặt chị ghé nhìn mặt nó.

– Trí, tại sao tàn ác với chị vậy ?

Câu hỏi đó của Diệp. Diệp, có quả thật tôi tàn ác? Tôi chỉ muốn hỏi, tôi hỏi Diệp, tôi hỏi Thuận, tôi hỏi Hiệp, tôi hỏi chị Lệ cũng như tôi hỏi tôi vậy. Bởi tôi không hiểu gì hết, không hiểu ai hết và tôi không muốn ai hỏi tôi vây. Quả thật là tôi tàn ác ? Tôi cười khẩy mỗi câu hỏi đều đã có câu trả lời, tại sao không chịu nhận ? Hiệp chẳng từng trách tôi là người gây rắc rối hay sao?

– Tôi hỏi chị điều cuối cùng thôi. Từ giờ sấp sau không khi nào tôi hỏi chuyện gì nữa. Chuyện gì đã qua cho qua đi. Ba con Liễu là ai ?

– Chị cũng muốn nói với em chuyện đó.

– Chị nói đi.

Chị Lệ sửa bộ ngồi, ngập ngừng hồi lâu :

– Chính chị, chị cũng không biết rõ anh ấy.

Nói dối. Chị vẫn còn sợ tôi như vị quan toà nghiêm khắc, chị không dám nói thật. Tôi không tin chút nào. Tôi nhắc chiếc ghế tới ngồi đối diện với chị. Khóe mắt chị in ngấn nước tròng mắt lơ láo sợ sệt thấy rõ. Chị kéo con Liễu sát ngực như đề che chở cho mình, con nhỏ thiêm thiếp một cách đáng thương.

– Anh ấy là người Bắc di cư. Phải từ hồi đó lận. Hồi chị xuống khu tập kết mấy ngày không gặp anh Tạc rồi trở về Sài-gòn. Chị tưởng anh chết thiệt rồi. Chị thất vọng hết muốn về nhà, đi lang thang ở Sài-gòn và chị gặp ba con Liễu...

– Khi không vậy ?

– Ảnh vừa ở Bắc vô được một hai bữa gì đó đi lang thang kiếm người quen. Ảnh hỏi thăm nhờ chỉ đường, chị cũng không biết rõ đường đất Sài-gòn.

Những ngày ấy, những ngày tôi bắt đầu có những toan tính riêng bỏ một mình chị với mối tình của chị. Chị từ trên xe đò bước xuống bến lúc chiều đang xế, chuyến xe đã đón chị ở dọc đường giữa cánh đồng nắng lấp lóa mặt nước; người thiếu nữ đứng trên vệ cỏ tay cắp nón tay ôm bọc quần áo, chiếc xe lôi đã quày lại đường cũ chạy mút vào đồng trên đường đất. Trong thành phố Sài-gòn đang biến dạng, chị lủi thủi như người dưới lục tỉnh lên kiếm việc, như những người di cư bị đuổi chạy khỏi quê hương. Chị cũng là người vừa bị đuổi khỏi quê hương của chị, tình yêu mà chị tưởng là chốn nương thân vĩnh viễn, hốt hoảng đau đớn. Có em anh không thể chết được, nhưng lúc ấy anh Tạc đã chết. Trong những con phố dài vắng xuyên qua thành phố, chị đi một mình không biết nơi nào sẽ tới, bọn đàn ông qua đường dừng xe lẩn lút bám theo sau cùng những mảnh bóng tối trên hè đường khuất, những lời tán tỉnh bâng quơ chốc lát rơi rớt lại dọc đường. Tối khuya chị Lệ ở lại nhà chú Sáu trong hẻm Bàn-cờ. Sáng bữa sau chị chưa chịu về nhà. Người đàn ông chị gặp, cầm tấm bản đồ thành phố in màu nhoè nhẹt chăm chú dò kiếm, bên lề đường chi chít xe cộ kè sát bên mình để tranh lối. Hắn hỏi chị Lệ và chị Lệ trả lời. Hai người lên xe buýt ra tới ngoại ô rồi lộn trở lại, những chuyến xe vắng người khoang xe chỉ chứa gió và nắng. Một người nói những chuyện miền Bắc, một người nói những chuyện miền Nam. Chị Lệ muốn biết Hà-nội, nghe nói về Hà-nội, thành phố anh Tạc có thể tới đó mang chị theo, nơi đó cũng đã là quê hương tưởng vọng của chị, tình yêu của hai người có thể đã bay trước về đó chờ đón, chờ đón tuyệt vọng. Trưa chị Lệ lên xe về tỉnh, hẹn người đàn ông sẽ gặp lại trước ga xe lửa tuần lễ sau. Trong khoảng thời gian tôi bị giam giữ, chị lấy cớ xuống hỏi thăm tin tức liên lạc và đến nơi hẹn.

Chị Lệ theo người đàn ông đi trên các đường phố, ngồi nghỉ trên ghế đá các vườn bông không một hứa hẹn dự tính: về nhà riêng của hắn bên bờ sông dưới chân một cây cầu sắt. Trên cầu xe cộ qua lại lùng bùng suốt ngày, căn nhà đóng cọc nằm nhô trên mặt nước, ván gỗ rung rinh theo bước chân đi trên những nhà kế cận, chị ở lại cả buổi cả ngày, má tôi không hay biết chút nào.

– Chị cũng yêu ảnh như yêu anh Tạc vậy. Có thể như thế được không Trí?

Chị mang thai con Liễu vào thời kỳ Sài-gòn lộn xộn. Người đàn ông biệt dạng. Mấy tuần lễ liền chị tới nhìn gian nhà khóa trái cửa, bên trong còn nguyên tấm đệm trải dưới sàn, và hai chiếc ghế đẩu, người đàn ông không có gì ngoài mấy món vật kể trên. Chị tìm cách mở được cửa vô nhà, nằm nghỉ, đợi mỏi mòn với những giấc mệt của người đàn bà thai nghén. Đã có lúc chị tính tự vẫn ngay tại chỗ nhưng vẫn ôm hy vọng gặp lại người đàn ông. Chị ngừng nói để thở ôm siết con Liễu vào ngực như đè nén những cảm xúc đang dồn ứ.

Con Liễu khóc thất thanh trong cơn mê, chị Lệ vội đứng lên đi qua lại ru hát. Bóng chị mờ mờ. Chị bồng con vô nhà trong. Tôi mở cửa sổ, ngoài vườn, lấp loáng gió lá, trưa đang tản mác vơi nhẹ. Nắng xuyên chạy đậu trên khoảng nệm trũng chị Lệ vừa rời bỏ. Chị Lệ lại trở ra, không còn bồng con Liễu, mặt chị đỏ ửng như say nắng. Chị ngồi xuống chỗ cũ, đầu cúi như lúc trên cầu buổi sớm.

– Chị đã xúi Diệp... Tội nghiệp Diệp, nó nghe chị, nó thương chị. Chị không ngờ chị làm nó chết. Trí, em biết không ? Chị chỉ muốn cho hai em có hạnh phúc, chị biểu Diệp rủ em bỏ trốn. Chỉ có chị hiểu em, vì hai chị em sống với nhau từ nhỏ, phải không. Trí ?

Phải không Trí? Phải không Trí ? Cuối hàng cây hai con chó rượt đuổi nhau, lăn lộn trên đất. Ngoài đường xóm nhiều tiếng chân bước trên đất khô cứng, tiếng trống bập bùng của hàng chợ nhuộm từ ngoài bến tiến vô. Khuôn mặt chị Lệ ngửa lên sáng láng nắng xiên dọi ngang.

– Chị xin lỗi em.

Tôi không muốn nói, cũng không muốn nghe thêm, bình thản, buồn bã nhìn vào khoảng không trước mắt đang mở ra trong ánh sáng. Lúc lâu tôi bảo chị Lệ:

– Chị đừng nói cho má hay, mai tôi đi. Tôi không về nữa đâu, một mình chị ráng lo cho má.

Dưới làn áo mịn căng, ngực chị Lệ cồn cào nhấp nhô. Chị ngoảnh mặt trông lên bàn thờ của cha tôi, ánh đèn dầu chụp sơn đỏ leo lét. Ngoài cửa rào, tiếng động lạch cạch, rồi tiếng chân bước trên lối gạch.

– Thôi má về đó, chị vô trong nhà đi.

Tôi nằm dài xuống giường, nghe tiếng nước sối rửa mặt cùng tiếng khịt mũi, rồi má tôi hỏi chị Lệ về con Liễu và tôi, đầu óc mệt mỏi, hấp nóng.

 

 

Không biết lúc ấy là mấy giờ, tôi thức giấc trong nỗi im lìm đè nén, tưởng như mọi người trong nhà đều đã chết hoặc chính tôi đang thức trong cõi chết. Đêm nay con Liễu không khóc, nhưng mê man bằn bặt bên những lời vỗ về cô đơn của má tôi và chị Lệ, tôi nghe đáng sợ hơn. Má đây, cưng của má, tội nghiệp con; con đau sao, con nóng quá ; con không thương mà sao, con đau sao, nói má nghe, con đau chỗ nào, cưng, cưng cưng của má,

– Mày nói làm xàm hoài, Hai. Má tôi rầy lớn tiếng.

Con nghe không? Ngoại đang rầy má. Không ai thương má hết. Con Liễu chỉ ọ ẹ lên đôi lúc. Ví dầu... tình bậu... à ... muốn thôi ù ơ. Bậu gieo ơ... tiếng dữ... ở cho rồi... bâu ra... u ơ... Chị Lệ ngày nhỏ đâu khi nào học hát điệu ru, ngày yêu anh Tạc chị chỉ ca cải cách. Chị đã thành người đàn bà, giọng của chị mềm mại ẩn nhẫn tối mát như nước kinh chảy luồn qua đám cây trong các vườn. Ù ơ... miệng chị hé mở, điệu ngân kéo dài như hơi thở thổi bên tai. Đó là một buổi trưa hè trong đêm nặng nhọc, tôi vừa trải qua một giấc mơ.

Trong giấc mơ, tôi nhìn thấy người lạ mặt đi cạnh chị Lệ trong ngày tháng xa lắc lơ. Dáng dấp lênh khênh của anh trôi nổi giữa đám đông trên hè phố. Hiệp, tôi nhìn ra Hiệp. “Tện em là Lệ.” Hiệp không nghe, anh ngó lơ về trước, nắm bàn tay mềm mại, sốt nóng của chị Lệ. Hai người lẫn vào đám đông. Tôi hỏi : “Anh không biết chị ấy là…” “Tôi không biết. Tôi không để ý.” Tôi nhảy đánh tới tấp vào mặt, vào đầu, vào cổ anh, Hiệp lảo đảo như người say mắt lờ đờ “Không phải tôi. Không phải tôi”, cho đến khi tôi mệt nhừ tựa vào vách. Hiệp ngó thẫn thờ và chúng tôi buồn vô hạn. Hiệp nói một câu, và tôi la lên: Tôi là Trí, anh nhớ chưa ? Hiệp lắc đầu, nói một câu. Tôi la lên: Tôi là Trí. Hiệp lại nói, tôi lại la : tôi là Trí, tôi là Trí, tôi không điên. Hiệp cười, tiếng cười đơn độc dội trên các vách tường. Tôi phủ phục xuống mặt hè la thất thanh như con chó bị đánh đập mà ngọn roi ác nghiệt là giọng cười quái gở. Rồi tôi khóc nức nghe rõ những hồi dồn đập ứ tràn, như buổi tối nào tôi đã chạy đến bên bờ sông ngồi gục mặt. Lúc tỉnh, tôi thấy tôi không khóc chút nào mặc dầu những hồi âm của giấc mơ còn vuốt ve mặt mũi... Bỗng tôi nghe những tiếng súng máy nổ ròn ngoài đồng, phía xa bên Ấp Chiến lược. Chó sủa ran lan truyền vào xóm. Một hồi lại im lặng. Rồi những tiếng súng bì bọp rời rạc khua động những con chó ở xa. Trong thinh không vang vọng những hồi trống dồn xen trong tiếng súng như lối cười giễu, tiếng chó xôn xao không dứt. Sự náo động như bị dồn thu vào trong các bức tường vây, bên ngoài là một vùng nín khe âm u. Tiếng súng im bặt mở một bầu trời sâu không đáy, từ nơi đó đột nhiên cất lên tiếng loa vang không nghe rõ lời. Người ta đang kêu gọi nhau chăng? Tiếng văng vẳng xa xôi không bay vượt hết được cánh đồng trống bị những tiếng trống dồn đuổi theo khỏa lấp. Tiếng trống nôn nao đập lộn trong màng nhĩ, trong lồng ngực như những hồi của trái tim náo loạn. Ngoài cửa sổ trên những lá cây, trời lóe sáng. Tiếng nổ ùng ục xào xạc cây cối trong vườn. Chó không sủa nữa, chỉ còn tiếng trống thúc hối và tiếng đại bác câu tới mỗi lúc thêm rung chuyển.

Tôi bỏ ra ngồi trên chiếc đôn sành ngoài hiên trước. Tiếng súng bặt hoàn toàn. Sự chết lặng xung quanh và trong tôi giữa màu ánh sáng lợt lạt như ánh ngày hoang tịch không còn thời khắc. Rất lâu tôi nghe mơ hồ tiếng nước chảy ngoài lạch thao thức, cây cỏ động đậy như ảo giác vờn múa. Trên mi mắt khô nặng dấu nước mắt, hiện xuống những hình bóng nhạt nhòa, bất biến. Không còn gì phải tự dày vò, hành hạ, con đường mày đã bước tới, mày phải đi tới cùng. Nơi hẹn ước với đồng bạn mày đã chậm trễ, nhưng rồi cũng phải đến. Chỉ còn Hiệp, Hiệp ở đâu đó, như một thù ghét quyến luyến và thừa sót.

Đêm với màu sáng chìm đắm dãn nở theo hơi lạnh và gió không biết đến khi nào sẽ lẩn biến. Dường như tôi đã sống những giờ khắc đêm nay một lần y hệt nhưng không nhớ rõ. Tôi quên dần mình, chuyển hóa thành một nỗi trắng như khoảng trời len giữa những gốc cây trong vườn ở ngoài cánh đồng. Tôi rùng mình nhận thức là đã sống hết, sống trọn cả đời mình từ bao lâu nay, mọi giây phút sau sẽ chỉ là sự lập lại, sự mô phỏng tầm thường của quá khứ. Toàn thân tôi mọc gai khiếp hãi.

Bằng trí tưởng tượng bị thúc quật bởi nỗi đau đớn đột ngột, tôi nhìn thấu suốt mọi chuyện đã xảy ra giữa chúng tôi. Tôi nhìn vào tôi như nhìn vào một cơn mộng, cơn mộng triền miên nếu tôi còn thức. Đam mê không phải niềm hy vọng, tôi đã lớn lên trong một nỗi đam mê khốc liệt che cái mặt nạ lãnh đạm dữ dằn, Hiệp đã nói như thế. Nhưng còn Thuận, còn Diệp ? Và Hiệp nữa. Anh vẫn còn sống, nhưng đối với tôi anh cũng là kẻ khuất bóng. Sức lực nào đã đưa đẩy cuộc hiện hữu của mấy người hợp với tôi thành một Định Mệnh? Cũng vẫn chỉ là những Đam mê cô đơn nên tuyệt vọng. Dưng không trồi lên những sự thật. Những khoảng trắng được lấp đầy. Tấn kịch vang từng hồi mãnh liệt. Tôi hiểu thấu những điều xảy ra sau lưng tôi.

Đêm vẫn tuôn chảy theo ánh trăng hạ tuần như cơn xuất huyết không cầm giữ được. Mai sáng mờ đất, tôi sẽ lén bỏ đi như tên ăn trộm không dám gặp mặt ai Tôi cũng biến mất.

2.

Lang là người đầu tiên nói về Hiệp. Hồi ấy tôi đã xuống Sài-gòn trọ học, mỗi tuần về tỉnh một hai lần vào ngày nghỉ. “Trường mới mướn một ông thầy Bắc di cư thiệt giỏi. Học sinh mến phục lắm.” Trường của ông Pháp, trường trung học duy nhất trong tỉnh nơi tôi đã theo những năm đầu tiên bậc trung học và Diệp đang học ở đó. “Ông ta theo kháng chiến tám chín năm mà phải di cư, nói nhiều chuyện ngoài Hà-nội thiệt động trời không tưởng tượng nổi. Mày có nghe nói Cộng sản hồi nào chưa?”. Lâu lắm tôi mới nghe Lang nhắc đến một người với nhiều bộ tịch và giọng nói nồng nàn, thường hắn nhừ nhừ như buồn ngủ. Tôi không mấy chú tâm, chỉ cốt gặp hắn để thông tin với Diệp. Năm đình chiến, Lang đã cùng tôi và mấy đứa nữa mưu tính trốn vào khu tập kết, ra Bắc, hắn cũng thảo luận bàn tính say mê, nhưng cuối cùng bỏ rơi chúng tôi giữa đường. Không thể tin được hắn, cũng cái giọng và bộ điệu ấy hắn nói về Kim Huê. Kim Huê, đứa con gái yêu dấu của Lang mà tôi coi rẻ.

 

Lang làm thư ký văn phòng cho trường của ông Pháp, và đại diện cho một Công Ty Bảo Hiểm dưới Sài-gòn tại châu thành. Ngày còn đi học, Lang đã có phong độ của một tư chức mãn nguyện. Đầu chải mượt, mặt trắng sáng sủa, cặp mắt lanh khôn giấu giếm, quần áo lúc nào cũng thẳng nếp, ăn nói cử động chậm rãi vừa tầm. Hắn thuộc loại học khá trong lớp, nhưng không hoài bão, thụ động, ù lì, dễ bị lôi cuốn. Đã có lần, muốn thân với Lang, tôi hỏi : “Mộng của mày sau này thế nào ?” Hắn buồn đáp: “Tao chỉ mong học đến nơi đến chốn. Nhưng hoàn cảnh gia đình tao chắc không được”. Gia đình Lang thuộc lớp trung lưu thành thị, đông con, không gốc rễ ở quê cũng như ở tỉnh, thứ giai cấp bấp bênh nghiêng ngả, chỉ cần một biến cố tầm thường cũng đủ làm suy sụp phân tán. Lang thứ ba, trên hắn là người chị, dưới hắn sáu bảy đứa em trai gái. Bố làm công chức ty Canh Nông, mẹ và mấy chị em gái xúm nhau trông việc nhà và cửa hàng xén ngoài chợ; ngoài ra gia đình cũng phụ thu được một số huê lợi hằng năm của một khoảng vườn trái cây, của hương hỏa ông bà đề lại. Tôi hỏi dồn : “Học đến nơi đến chốn là đến đâu ? Tú tài, Cử nhân hay Bác sĩ, Thạc sĩ, Tiến sĩ. Mà đến nơi đến chốn để làm gì mới được ?” Tôi nổi nóng vô lý. Bản mặt Lang lúc ấy u tối, ngây đụt hết sức. Chiều tan học, tôi đạp xe máy ra khỏi tỉnh, đi vào trong lối mòn giữa ruộng mía cao ngất đầu. Lá sắc chen chúc vướng mắc như rừng gươm. Hương ngọt ngào tầm khí trời. Bông mía trắng nổi từng cụm trên nền xanh của lá phơ phất như mây. Câu hỏi không nghĩ trước đặt cho Lang, dội trở ngược vào tôi. Tôi sẽ làm gì? Trở thành cái gì? Tôi mười bảy tuổi, tôi đọc các sách tuyên truyền chủ nghĩa, chứng kiến chiến tranh, mơ tưởng đến xã hội. Nhưng tôi sống giữa làng xóm nghèo bẩn chật, những phố quận tẻ nhạt không chút sinh khí, và tôi không có bạn hữu. Khi tôi trở về nhà, trời đã tối. Má tôi và chị Lệ, mỗi người bận bịu một góc, chờ cơm. Có lẽ đó là buổi đầu tiên, tôi bước qua ngưỡng cửa nhà nhận ra sự lạnh lẽo âm u cần xa lánh.

Vẻ mãn nguyện, hèn nhát, phản trắc mỗi năm mỗi vẽ rõ trên nét mặt Lang. Những buổi tối, Lang nắm tay vợ đi chợ ăn nhậu, hắn vận pyjama màu xanh lơ viền sậm gài nút tréo, vợ tóc uốn vẫn lên đỉnh đầu, õng ẹo trong bộ đồ lụa mỏng mầu hồng thêu rồng thêu phượng. Thứ bảy chủ nhật, hai vợ chồng trang điểm đưa nhau xuống Sài-gòn coi hát bóng; Lang sơ-mi trắng hồ cứng, khuy măng-xét vàng chói, kẹp cà-vạt hình móng ngựa mang hạnh phúc; Huê tô mặt đậm, áo dài bông khoét cổ sặc sỡ, bóp dài tòn ten bên vai. Tôi gặp hai đứa choàng móc tay nhau dạo phố hay vô tiệm ăn, vẻ hãnh diện quê mùa mà mắc cỡ dùm. Tôi nghĩ dù sao nó cũng đã là bạn một thời, cùng đi chơi với nhau, từng mưu tính theo đuổi một công chuyện. Đôi lúc tôi vừa giận vừa thương hại Lang. Nó không nghĩ, nhớ, tưởng gì, óc nó là vũng ao bùn, đời sống của nó là sự biểu diễn trơ trẽn như đồ vật bầy mang trên mình.

Rớt Brevet, Lang nghỉ học, xin ngay vô làm thư ký tại trường với món tiền đặt cọc, khi ông Pháp đang cần vốn xây cất thêm lớp học mới, và theo đuổi chinh phục Kim Huê, người đẹp phố chợ. Kim Huê con nhà buôn sắt, hằng ngày ngồi đứng, đi lại giữa những ống khóa, dây kẽm, cây sắt, đinh ốc, thùng lon... mang trên mặt vẻ đẹp tối, ngu, nặng và dâm tình. Trước khi lấy Lang, Kim Huê mê tên thiếu úy người Bắc đóng trong thành. Gã này thường tới lui giúp gia đình Kim Huê giao dịch mua bán với nhà binh Pháp, dân “rau muống đặc biệt” miệng lưỡi lật lọng. Hai đứa rủ nhau đi Ô-cấp, chụp hình chung với nhau như chồng vợ, tấm hình còn được trưng lớn trong một cửa tiệm miệt Phú nhuận. (Đứa con gái lắng lo đần độn ngả đầu lên vai tên đàn ông giảo hoạt miệng cười ruồi không thèm che đậy, hiện trên mầu thuốc vàng ởn sẽ nhạt dần và biến đi dưới ánh nắng chiếu mãi vào mặt phố đã làm phai cả tấm vải tím giăng che ngoài hiên. Tấm hình ấy đứng bên những tấm khác đủ kiểu: nữ hiệp chống gươm dưới trăng mờ, cao-bồi hờm súng nón rộng vành uốn cong, nhà thám tử trầm ngâm suy tưởng trước khói thuốc lá, cô gái nhà quê xứ Bắc e lệ thẹn thò trong khuôn trái tim, ba cô gái Nhật che dù trước lầu nguyệt thấp ngang đầu bên hàng tơ liễu rủ, chàng phi công đầu bóng đặt cánh tay ra ngoài thành tàu, ngón tay út phô chiếc cà rá mặt đá vuông thiệt bự…) Cả tỉnh đều hay, Lang thây kệ. Cha mẹ phản đối, hắn nhất quyết năn nỉ xin xỏ cưới cho được, bằng không hắn sẽ tự vẫn. Đám cưới linh đình, nhà chật ních khách khứa. Bàn dọn kê đến ngõ, ăn uống hai ngày liền, Lang đón về một ban cổ nhạc và một ban tân nhạc, đàn ca tới khuya. Các bạn học cũ đều được mời. Bàn của bọn trẻ chúng tôi ở ngoài sân, dưới bóng cây mắc đèn xanh đỏ. Tiệc vui nhộn hỗn tạp. Rượu, cười, nói tục kín hở, khích bác, cãi lẫy, vọng cổ, trống mọi bập bùng. Lang lăng xăng hớn hở len lỏi qua các bàn, thắt chiếc nơ đỏ, trong bộ đồ lớn cứng ngắc. Tôi chợt như khám phá một cách chắc chắn chính hắn là kẻ phản, tố cáo bè bạn, đưa cả đám vào tù trong kỳ rủ nhau tính trốn ra Bắc, Gần đến ngày lên đường, mọi người xếp đặt xong, Lạng thối lui. Hắn tìm sang tận nhà tôi nói : “Thôi tụi bay đi, tao không đi được. Lỡ hai năm không thống nhất…” Tôi nổi hung la : Đồ hèn nhát. Dễ tao không có gia đình? “Mày khác, tao khác.” “Quân phản bội.”

Nhưng khi người lớn đã cáo biệt, chúng tôi bắt đầu ngấm rượu phá phách. Tôi quên hẳn những ý nghĩ xấu về Lang và dường như ngấm ngầm tôi ghen tức thèm muốn hạnh phúc như nó. Tại sao tôi không sống được như nó vậy ? Tôi cũng sẽ lấy vợ, cũng đẻ con, tôi phiền muộn và tôi hạnh phúc. Chúng tôi hùa nhau trêu chọc Kim Huê, hò hét la lối bên những bàn tiệc chỏng trơ, cười khoái trá. Chúng tôi đứng lên, nâng ly chúc tụng cô dâu chú rể trăm năm hạnh phúc, loan phụng hòa duyên, rồi vỗ tay đồng ca một bài hát không đầu đuôi với ban tân nhạc gồm mấy cây ghi-ta điện rè, một bộ trống aa chùng. Hát dứt, tôi nghe tôi cười sặc ngất ngư, mệt muốn đứt hơi. Nhìn ngoái lại cái cổng ngõ kết bằng lá dừa với hàng chữ bông đỏ thắm “Lễ Thành Hôn với Trưởng Nam”, Lang choàng vai Kim Huê đứng tiễn say sưa, tôi thấm thía nghe mình già cỗi trong chốc lát, già một cách thảm hại. Đêm ấy tôi không trở về nhà, tính tới ngủ đậu nhà một đứa bạn. Chúng tôi cặp vai nhau đi rong qua các đường đêm. Châu thành hoàn toàn vắng lặng, không bóng người, không xe cộ như một hòn đảo lênh đênh. Chúng tôi nói đủ thứ chuyện, có lúc gây nhau tưởng muốn đánh lộn. Cuối cùng chúng tôi kéo nhau vô quán cà-phê đầu chợ. Một đứa bỗng la lên: tụi bay, tao buồn, nó cầm chiếc ghế liệng ra hè và những đứa khác bắt chước. Mấy chú ba tầu hô cảnh sát tới rượt. Tôi chạy thoát về trường ông Pháp, chui vô trái bếp nằm. Muỗi quá, tôi thức suốt đêm, leo lên từng lầu sắp cất của một dãy lớp học còn ngổn ngang vật liệu, nhìn vườn đêm, trời sao trên đầu, nhà cửa. Tôi hai mươi hai tuổi, tôi buồn. Mặc dầu lúc ấy tôi mới được yêu Diệp.

Sau đám cưới, tôi không muốn nhìn mặt Lang. Mỗi lần gặp hắn, tôi không giấu vẻ khinh bỉ, nhưng hắn làm như không thấy, hắn vẫn xử tốt tỏ vẻ nể vì tôi. Và tôi vẫn phải tìm hắn nhờ liên lạc với Diệp. Đột nhiên Kim Huê bỏ nhà đi mất. Nghe đâu nó gặp lại tên Thiếu úy người Bắc tình nhân cũ. Lang đau mấy tháng, mắc chứng bịnh kỳ lạ: tim to không ngủ được, suốt đêm mắt mở tráo trân. Tôi tới thăm, thức với hắn trọn đêm, trước mấy ngày xảy ra tấn kịch của chúng tôi. Nhưng cơn mưa tắt nối miên man như những hồi tâm sự của Lang. Tôi bị dựng ngồi trong giấc ngủ tê liệt để nghe. Hắn sẵn sàng tha thứ hết mọi lỗi lầm cho Kim Huê như hắn đã chứng minh khi cưới Kim Huê, miễn nàng chịu trở lại với hắn. Hắn tin Kim Huê sẽ trở lại. Nàng không thể tìm được ai tha thiết hơn hắn trên cõi đời này. Hắn quyết tìm gặp bằng được và nàng sẽ trở về sống với hắn như cũ không khi nào còn bỏ đi nữa.

 

Trước mắt Diệp, Hiệp là một ông thày uy tín, quyến rũ, mê hoặc, Diệp không tiếc lời ca tụng. Trong cái không gian trì trệ, tù túng, tẻ nhạt của tỉnh lỵ mà mỗi hành vi nhỏ nhặt đều bị dòm ngó để thuật thành tiểu sử của từng người, Hiệp mang tới cho bọn học trò mới lớn những phiêu lưu mộng mị của trí tuệ.

– Có lẽ anh không đồng ý với ông ấy. Ông ấy di cư và ghét Việt Minh mà. Bữa nào anh thử tới nghe ông giảng coi. Em chưa học ông thầy nào giỏi hơn ông Hiệp. Học ông em hiểu được nhiều thứ lắm...

– Coi chừng em mê luôn ông thày của em đó.

Hiệp khoác vẻ lãnh đạm khác thường. Khi anh nói như trong một cơn mộng, anh lui vào nói vọng ra ngoài. Giọng không hùng hồn, phẳng và trầm. Sức thu hút phát sinh từ những nhận xét táo tợn, phán đoán cương trực xen lẫn những ảnh tượng chợt kết hợp, những quãng trắng bâng khuâng. Một giọng nồng nàn thầm kín bởi một tình yêu thoát ngoài đối tượng. Một bữa tối, tôi đã đứng ngoài cửa sổ lớp học đêm đón Diệp, quan sát người đàn ông cao gầy, chân tay dài, da mét như bị bệnh gan hay bệnh rét rừng, môi thô dầy, mắt đục, cằm nhọn, mũi lớn, lừng khừng, vẻ khó hiểu, không giống như người Bắc thường gặp. Hiệp đi lên xuống giữa hai dãy bàn học trò, như muốn ẩn giấu mình đi. Chỉ nghe một tiếng nói vừa đủ, thân tình nghiêm trang. Tôi nghĩ bọn học trò không hiểu ý tưởng của thày. Tôi tưởng như Hiệp chỉ nói với tôi, đứng ở ngoài.

– Trông ông ta chẳng thông minh chút nào. Không hiểu sao em lại phục được chớ.

Những câu nói giỡn của tôi về Hiệp làm Diệp giận, đỏ mặt, si dài. Diệp bất mãn, cho tôi gàn bướng không chịu phục ai bao giờ, nhất là với người không cùng lập trường chính trị. Ngay sau này khi đã lui tới quen Hiệp và Thuận, tôi vẫn ưa chống đối Hiệp, giễu cợt, phê bình anh với Diệp. Diệp không chịu nổi hay gây với tôi. Diệp không rõ hết những dạng thức của tình yêu, Diệp không biết rằng nàng yêu Hiệp. Nàng không thể biết và cũng không muốn biết.

 

Nhưng tôi, thực sự tôi biết những gì về tình yêu ? Tôi vẫn tự hỏi. Phải chăng không thể có được tình yêu, tình yêu đích thực, ít nhất trong hiện tại, nơi tôi. Mà thế nào là tình yêu, đích thực ? Tôi không rõ, không sao tự trả lời. Tôi chỉ biết với mình điều mọi người gọi là tình yêu chẳng qua là sản phẩm của trí tưởng tượng nghèo túng, một thế giới ảo tưởng của những kẻ lừa gạt lẫn nhau trong một trò chơi kiêu bịt mắt bắt dê, trốn chạy cuộc phiền nản hằng ngày. Người tham dự che mắt, mò mẫm, sờ soạng, rượt bắt nhau, vấp ngã bươu đầu sứt trán trong khi chính mình bất cứ lúc nào cũng có thề ngừng lại giựt tung tấm khăn bịt mắt. Tôi không hiểu nồi sức mạnh say đắm thách đố cái chết của một mối tình bền bỉ, hóa kiếp những kẻ tình nhân thành thần tượng không già, không sụp trước sức tàn phá của đời sống. Yêu nhau một đời, yêu nhau một kiếp, yêu nhau đời đời kiếp kiếp, tôi chẳng sao quan niệm nổi. Đối với tôi, tình yêu phát hiện như nỗi bất lực thê thảm, như một dày vò ác độc, những hốt hoảng tủi thân của một bản ngã phân ly. Tình yêu đối với tôi là câu chuyện cổ tích được nghe lại khi lớn, bị lột hết vẻ huyền hoặc nhiệm mầu.

Tình tự cùng Diệp, ghì nàng trong ngực, tôi nghe tôi phân hóa chới với như một cõi hư vô giả dối. Tôi cần Diệp, đó nhưng tôi đứng ngoài mối tình của nàng trao tặng. (Không phải vì Thuận và Hiệp, trước cả lúc xuất hiện của hai người trong cuộc tình chúng tôi nữa.) Tôi bảo Diệp: “Rồi một ngày chúng mình không còn muốn nhìn mặt nhau nữa. Lỗi chẳng phải ở ai. Sự thể nó như thế” “Tại sao thế anh ? Suốt đời em chỉ yêu mình anh” “Không phải.” “Anh không yêu em” “Anh không thể diễn được điều anh định nói” “ Anh coi thường em. Để em lấy chồng anh coi” Chúng tôi không nói chung một thứ ngôn ngữ. Lúc ấy tôi tự rủa: cớ sao mày không si mê như mọi người ? Cái gì giữ mày lại nơi ngưỡng cửa tình yêu ? Nhưng có thật chăng, bước tới là vào một thế giới hiện hữu hay chỉ rớt xuống lòng vực không đáy? Anh yêu em, anh yêu em. Tôi nói nhưng chẳng tin, trong tim tôi quay cuồng vực trống, nỗi cô độc chẳng rời.

Tôi nhớ lúc mới được Diệp yêu, tôi đã viết cho nàng một bức thư. Đêm đó tôi không ngủ. Nhà trọ chỉ còn mình tôi ở lại, hai đứa học sinh ở chung đã về dưới Lục tỉnh từ trưa thứ bảy tới tối chủ nhật mới lên. Tự dưng tôi không muốn về thăm nhà, không muốn gặp Diệp. Diệp và tôi tuần trước gây lộn vì một cớ nhỏ nhặt không đâu, chúng tôi chỉ mới hẹn nhau hai ba lần. Tôi dạo phố buổi chiều một mình ngoài Sài-gòn. Chín giờ tối mưa lớn, tôi không thể đi đâu cũng không thể làm việc. Ngoài nửa đêm, tôi ngồi viết thư xin lỗi Diệp. Xong tôi ra đứng ở ban-công nhìn phố khuya. Rạp cải lương tối tăm buồn bã. Nhà ga tối thui với những toa than im lìm. Bến xe đò rác rưởi trống trải. Cây xăng đèn sáng đầu ngã sáu với gương kín và xi-măng nhẵn trần. Mấy phố xa, đèn hiệu nê-ông nhấp nháy. Mưa lại đồ xuống, tôi quay vô đóng chặt cửa vẫn không ngủ nổi. Tôi đọc lại bức thư đã viết, xé bỏ. Tôi viết lại, lần này một lá thư khác hẳn. Tôi viết vội vã, nóng nảy, xuất thần không kịp để cho ý nghĩ hiện hết. Tôi viết không dám nhìn trở lại những dòng trên với một cơn thịnh nộ ầm ĩ trong đầu như mưa xối ngoài đường. Lá thư dài, không gạch xóa, như lời kêu cứu thất thanh trong đêm khuya, làm tôi mệt nhừ, đau đớn trong ngực. Tôi viết những gì, ngay lúc ấy tôi cũng không nhớ hết. Chỉ mường tượng như một sự thúc hối mãnh liệt đang khuấy đục thần trí. Viết xong tôi nằm vật xuống ghế vải, thở dốc như con thú bị thương, thân mình trần truồng lạnh giá, mồ hôi nhơm nhớp. Hồi lâu tỉnh lại, tôi chỉ mặc chiếc quần xà lỏn, lên xuống nhà mở cửa băng qua con đường trơn ướt đã tạnh ném phong thư vào thùng bưu điện. Tôi sợ mai sớm thức dậy tôi không còn can đảm gửi đi.

Tuần sau gặp lại Diệp, nàng ngó tôi bằng cặp mắt khiếp hãi. Còn tôi dửng dưng. Tôi không nhớ một chút gì đã viết trong lá thư. Diệp bảo : “Anh khùng hả?” Tôi cười ngất : “Không. Lúc ấy anh yêu em có thể giết chết ngay tức khắc nếu em ở đó”. Xúc động của Diệp vì lá thư tan ngay, Diệp coi thường. Tôi chỉ còn nhớ tôi đã gửi lời cầu cứu đến Diệp và nàng không đáp ứng. Không khi nào tôi còn viết một chữ cho nàng nữa. Diệp không hiểu tôi, trước mắt nàng, tôi chỉ là đứa con trai kỳ khôi nhiều lúc làm nàng kinh hãi. Như vậy tại sao Diệp lại yêu tôi ? Tại sao?

Diệp. Người tình trong cuộc phiêu lưu ngoài hạnh phúc. Diệp như ảo giác thuần khiết trinh trắng tôi xua đuổi. Bóng dáng nàng thanh tú, mắt sáng mát như thoáng trời lạ bay trên chòm cây cao buổi sáng thức giấc mệt mỏi hoang mang; (màu sắc phai mau trong ánh ngày phiền muộn). Nụ cười sẵn sàng tỏa trên nét mặt tươi vui bướng bỉnh một cách nhu hòa, như dòng kinh trong chiều hè giữa hàng dừa vàng như nắng. Diệp, trước sau vẫn chỉ là một ám ảnh quanh co không thành mộng.

Năm gặp nhau, Diệp mới mười bẩy, tôi hai mươi. Hai mươi tuổi vào lúc tiếng súng im, đó cũng là một mắt của định mệnh. Trong niềm phấn khởi của người xung quanh, tôi và chúng bạn nói với nhau : “Chúng ta phải kiến tạo lịch sử…”. Những đứa học trò mới lớn biết những gì về lịch sử ? Chúng tôi say mê những danh từ lớn : Cách mạng, Lịch Sử, Dân tộc, Xã Hội, nhân loại... Mỗi danh từ là tiếng vang của một thế giới mới, một miền đất ngoài khơi. Hãy thức dậy, đi xa, đi thật xa ngoài quá khứ, ngoài hạnh phúc ngoài cuộc sống thường nhật. Lịch sử ở trong tay, ngày mai chấp chới ngoài kia. Hai mươi tuổi cuồng nhiệt khát vọng. Thời gian chật hẹp, sâu đục của dòng hiện hữu cụ thể tan nhòa, người ta được đẩy lên vùng biến động tuyệt đối - Tuyệt đối và đơn giản – Cả cuộc đời này rút gọn vào vài ý niệm. Trời cao rộng ngừng nhìn gần gũi như tương lai. Mình chính là một giấc mộng, mỗi nhịp thở cuốn lấy nỗi cô độc kiêu hãnh làm ngây ngất xây xẩm mày mặt. Chúng tôi chưa biết gì, nhưng chúng tôi đã trông thấu sự vật, chúng tôi nắm chắc chân lý. Bây giờ tôi không hối tiếc, tôi chỉ tuyệt vọng. Một lần Hiệp nói : “Nhìn cậu tôi thấy lại tôi mười năm về trước. Giống hệt như vậy. Không ai giác ngộ nổi cho mình, trừ mình ra – Cậu hiểu tại sao tôi tránh tranh luận với cậu. Cậu đang ở cái giai đoạn văn chương nghĩa là tín nhiệm vào ngôn ngữ. Tôi đã trải qua rồi.”

Diệp và tôi gặp nhau trong bót Catinat, trước đó tuy cùng ở một tỉnh chúng tôi không biết nhau. Diệp cũng bị bắt trong một toán học sinh khác mưu tính ra khu tập kết.

 

Nhà giam không mái tường cao ngất. Đang trong mùa mưa, mưa rỉ rả suốt đêm, trời xám ngoét. Trên xa ngôi nhà lầu năm từng vài khung cửa sổ lớn mở không. Đâu đó ánh điện ấm, tiếng nói, âm nhạc, tiếng động thanh tao âm trong phòng. Bốn ngọn đèn chụp thiếc trong bốn góc, những con mắt thức trắng soi mói sự nín lặng lúc nhúc. Cả trăm người nằm ngồi dựa dẫm, lồn nhồn, phơi trần trên nền tráng xi-măng lẹp nhẹp. Bên kia hàng chấn song chạy suốt một mặt, hành lanh vàng khé, Diệp nổi hiện như một vết trắng muốt trong giấc ngủ vỡ vụn. Sự thúc đẩy, chèn ép dành một chỗ, mùi hôi hám ẩm ướt đặc sệt. Những cơn ác mộng không thành hình của mình và của người khác. Bấy giờ là nỗi cô đơn cùng khốn trong đông đảo đến độ kinh khiếp, không còn sự chia sớt san sẻ với nhau, đồng loại bao vây như tấm gương soi nguyền rủa.

Người thiếu nữ bận bà ba trắng, tóc còn xõa, dựa vào tường, mắt nhắm hai chân duỗi thẳng, chân mặt của nàng tra trong một vòng sắt của cái cùm công cộng, thanh sắt dài với những vòng khóa ôm vừa cổ chân – Diệp ngồi giữa hai người đàn bà có mang gần tháng để mệt mỏi, tiều tụy. Bàn chân nhỏ gót hồng lâu lâu ngọ nguậy. Nửa tháng liền, nằm sát bên hàng song, má áp lên nền nhám cứng, đầu gối co che ngực, tôi hé mắt nhìn vào người thiếu nữ không quen. Mái tóc như những ngọn gió mát, đường trán như lối dẫn về đồng cỏ, cặp môi ngậm kín những lời êm ái tưởng tượng, mặt như bản khắc trên gỗ, lững lờ như mơ ước. Tôi nhìn vào Diệp mỗi lần bị giật khỏi giấc ngủ và thực tại như một đám khói mù nghẹt thở. Tròng cái thế giới bị chà đạp, dày xéo, tàn nhẫn, cái thế giới khốn nạn, hình bóng đàn bà yêu dấu nhập vào Diệp, (một bàn tay vẫy gọi tận chốn xa không bao giờ tới được, ngay từ buổi đầu tiên). Người thiếu nữ không quen, được ở trong hành lang tránh mưa nắng, đặc ân dành cho đàn bà sắp sinh nở, những kẻ gia đình thế lực. Tôi nằm giữa trời lẫn lộn giữa một bầy rách rưới hôi thối. Cùng thân phận nhưng vẫn chia cách, chúng tôi gặp nhau.

Ban ngày tôi bị xô lấn dời chỗ lúc nào không hay, quanh hết góc này sang góc khác. Mưa nắng thay phiên dội xuống. Mặt mũi, tay chân chất nặng cơn sốt ngầm bẩn thỉu. Thị giác tê mỏi vì bị trấn áp bởi các hình thù quái đản của các phần thân người. Cuộc đầy đọa hủy phá nhân dạng, những mặt nạ bằng thịt xương tong teo trơ trơ những vết khắc sâu chết của sợ hãi, bệnh hoạn, tra tấn. Những thân hình tả tơi, ghẻ lở, thương tích. Những cử động rối nùi. Hàng trăm người trong khoảng vuông, mỗi bề mươi mười lăm thước, chồm hổm xếp hàng vào giờ cơm. Cơm đựng trong càng xế, thức ăn trong thùng, kéo lết trên đất. Áo mặc trên người được cởi, túm lấy bốn góc hứng cơm. Những mảnh giấy, lá chuối khô, ống lon méo mó, đựng đồ ăn. Một vài miếng khô hoặc nước canh đen lòm lòm. Tên chà lai cầm roi bò canh trật tự. Mỗi bận hắn nhào tới, những hàng phía trên nghiêng giạt sang hai bên xếp lớp nhường lối cho ngọn roi quất xuống tới hàng chót. Trên má tôi còn giữ vết sẹo trắng của ngọn roi hút lấy mặt như có điện. Sau giờ cơm đến giờ chùi rửa cầu tiêu đặt ở mấy kẽ ngách hẹp đục trong tường. Đám tù bị lùa giạt, đùn cục trong các góc. Nước xối lênh láng, phân rã lẫn giòi bọ. Công việc chùi rửa xong người ta xô đầy túa chạy giành chiếm các ngách trước chuồng tiêu. (Thời trước nữa, người ta phải đứng chôn chân, ăn ngủ tiểu tiện tại chỗ, phân và nước tiểu ngập tới mắt cá).

Đêm đêm, tủi nhục hiện hình trong giấc ngủ ngổn ngang, bệnh bốc lên ở khắp cả, cơn mê sảng kêu ré, không rõ của ai. Tôi nằm trong cơn sốt trơ vơ, u hoài. Người thiếu nữ trong hành lang sạch sẽ, thơm mát, (gia đình Diệp tiếp tế cho nàng đầy đủ), ở cao trên tầm mắt của tôi. Cảnh ngộ bao bọc không bết được vào người nàng, còn tôi, tôi bị bóp nghẹt. Giữa đêm tiếng kêu khô khan một cái tên được lập lại vài ba lần cùng với song sắt lay động. Những tiếng vang yếu ớt trong đám tù nhắc nhở, người ta nhắc lại nhớ xem có phải là tên mình hay không. Một người cọ quậy động cả một khoảng dáo dác xung quanh. Cửa sắt mở rít loảng xoảng, một người chập choạng bước qua các thân nằm ngồi không thành hàng lối như bước qua cơn mê hỗn độn. Tôi bám chặt mắt vào Diệp, mắt nàng ngơ ngác, đen mướt như đêm, môi hé mở như muốn kêu, ngực phập phồng. Người con gái ở đó, bất động, lung linh như niềm hư ảo. Nỗi đau đớn chết điếng, ngất xỉu cùng với những hồi rên rỉ ấm ức rớt vào sự nín câm sâu thẳm của tuyệt vọng. Một vài phút cánh cửa sắt mở, tôi tưởng mình gần hơn người con gái lạ mặt.

Diệp được gia đình lãnh về trước tôi một tháng. Nhiều buổi tôi ngó nhìn chỗ trống của người thiếu nữ và đợi, thoạt tiên tôi tưởng Diệp bị dẫn đi lấy cung như mọi bận, tôi thức trọn đêm đón nàng. Khi buổi mai lên - nơi khung trời vuông trên đầu và cơn mưa lưng chừng sắp rớt, hơi nước lả tả trong không trung, khuôn mặt người thiếu nữ không quen đã nhập cùng ý nghĩ chia lìa chết chóc. Người ta khiêng ra ngoài bước ngang mặt tôi một xác người kiệt sức hồi đêm. Sự đợi chờ căng thẳng, chùng dần hóa thành mối đoái tưởng vu vơ. Nàng biến mất ? Nàng đã chết? Tôi không hay biết một chút gì về người thiếu nữ ấy. Có thể như thế được không? Tên nàng, tôi muốn biết tên nàng. Nàng là một ngôi sao băng đi trong vòm đêm vô cùng tôi dựng lên trong tri tưởng. Tôi còn trơ một mình. Các bạn tôi không bị giữ cùng chỗ với tôi. Tôi khóc khiến cho đứa nằm bên phải bực mình và la tôi nín. Nó nói giọng Bắc dễ nghe, hỏi tại sao tôi bị bắt, tôi đáp như vẫn trả lời những người xung quanh tôi muốn ra Bắc. Nó cười sằng sặc chế giễu. Nó đã bỏ miền Bắc và gia đình để vô Nam. Tôi không hiểu lý do sự có mặt của nó trong nhà giam. Mấy ngày sau, nó và tôi chỉ thảo luận chính trị, chúng tôi chơi với nhau nhưng không chịu nhau.

Một buổi sáng, mưa tầm tã, người ta kêu tên tôi ngoài hành lang. Giữa đám tù nhân lấn áp chen chúc tránh mưa một cách vô ích, tôi bốc cơn sốt mờ mắt, phải dựa vào vách tường mới đứng vững. Tôi nghe và không động, tai ù điếc chộn rộn, hơi thở nóng như bê lò. Minh –đứa bạn tù di cư – chống hai tay vào tường lấy thân làm hàng rào che cho tôi khỏi bị đám đông lẫn và mưa tạt. Nó đưa tay thân ái vuốt hắt những giọt nước ròng ròng trên tóc, trán, mặt mũi của tôi.

– Đừng nghĩ gì khác. Anh hãy cố tưởng tượng đến người tình của anh.

– Không. Tôi không có

– Bất cứ người con gái nào.

– Không ai yêu tôi.

– Thế nào cũng có một người yêu anh mà anh không biết.

– Khát quá.

– Uống nước lạnh bây giờ chết.

– Tôi thèm miếng nước lạnh.

– Không được.

Người ta lại gọi tên tôi, nhưng tôi nghĩ không phải là tên tôi. Tôi run lẩy bẩy, Minh ôm lấy tôi cho tôi khỏi té xuống. Mưa dội mạnh thêm, tất cả đứng một chỗ chịu trận.

– Để cho tôi nằm

– Không được. Nước ngập.

“Có người xỉu” tiếng la như kề lỗ nhĩ khiến tôi giật mình. Không ai nghe, mưa dầy như bức tường. Ngoài hành lang người ta la tên tôi cáu giận, tôi hơi tỉnh hỏi :

– Kêu tôi phải không ?

– Tên anh là gì ?

– Trí. Huỳnh minh Trí.

Minh và một người nữa đỡ dìu tôi đến bên cửa sắt... Tên chà lại hỏi :

– Đau?

– Tôi là Huỳnh minh Trí.

Tôi ráng bước một mình vào hành lang, người thiếu nữ la mặt không còn ở đây. Tôi đi trong cơn sốt hầm hập. Sân mưa mù mịt với những bóng xe đậu im. Hè xi-măng bên đường mương nước chảy ồ ồ dưới. Những cửa sổ mở của các phòng việc. Điện thắp ban ngày trong hành lang. Tôi ngồi bẹp dưới chân tường không biết bao nhiêu lâu.

– Dậy mày. Giả bộ hoài.

– Huỳnh minh Trí ? Không nói gì mày ? Muốn ra Bắc hả? Đồ chó đẻ. Lần này tao tha cho về. Không lo học, lộn xộn lần nữa bắn chết bỏ. Tôi chỉ còn nhớ thấp thoáng người ta đã đẩy tôi vào trong một văn phòng. Một cái miệng đầy răng vàng khé, la lối. Tôi bị tát trái giữa mặt, ngón tay áp úp đeo chiếc cà rá vàng tây rạch một đường sẹo bên mép. Tiếng chuông điện thoại, tiếng ghế xô. Một người vô phòng: ông Pháp lùng phùng trong bộ tây trắng. Ông ký giấy bảo lãnh cho tôi. Ông nói: con ngu quá con ơi. Mày chỉ làm kổ má mày thôi. Má tôi đội áo mưa đón bên đường, Lúc ấy lòng kiêu hãnh sụp đổ, tôi bải hoải yếu ớt chỉ muốn chết.

Mấy tháng sau, tôi tình cờ gặp lại Diệp trên chuyến xe lô xuống Sài-gòn. Tôi ngồi cạnh nàng bên người tài xế mà không hay. Tôi nhìn nghiêng người thiếu nữ ngờ ngợ, đường mũi thẳng, môi dưới trễ, tóc bay xòa trên nền gió ngược bên ngoài. Đồng ruộng, vườn tược, sông lạch trôi mau sau khuôn mặt ngửa như buổi ban mai đang ngước lên cao. Hồi này, tôi đang bị nhốt trong hoài nghi và bất lực. Tôi không biết phải làm gì, đi đâu, ở đâu cho đúng, ngày tháng trụy hoại trong hoang mang. Đám người di cư nghèo nàn rách rưới, thả dông trong các đường phố Sài-gòn với mắt nhìn và dáng điệu khiêu khích của những kẻ cùng đường nhắc nhở tôi nhớ lại những buổi đối thoại với Minh trong nhà giam. Không còn Minh, tôi phải nói một mình, nói một mình như ở trong cõi đầy ải. Mãi khi xe ngừng dưới chân một dốc cầu, Diệp chợt quay nhìn tôi. Tôi đã hỏi :

– Phải chị đã bị bắt vô Catinat không?

Diệp giương mắt ngạc nhiên, tôi e mình lầm, rồi khẽ gật mỉm cười.

– Tại sao chị bị bắt ?

– Giống như anh vậy.

– Thiệt hả. Chị còn ý định đó không?

Diệp lắc đầu, tóc nàng bay phất, vài sợi nhỏ quất ngang mi mắt tôi. Cây cầu gỗ rùng rùng khi xe lăn qua. Một bên đầu cầu, cái bốt bỏ hoang, cây leo bám quanh các kẽ gạch, nhìn xuống con rạch chảy giữa những bụi cây xanh. Dưới chân dốc cầu bên kia, ngôi trường sơ học một lớp ngày nào với hai ba chục đứa nhỏ và một cô giáo áo tím chỉ còn là một khoảng nền đất giữa đám cỏ sũng nước. Diệp đi qua cuộc mạo hiểm một cách ngây thơ như dạo chơi. Bây giờ Diệp lo học hành thi cử, sửa soạn vào đời bằng lối khác. Còn tôi, cuộc phiêu lưu nửa chừng biến tôi thành một mớ những ước muốn, toan tính nửa vời, một ý thức trôi giạt trong hư nguy.

 

Những tuần lễ đầu tiên mới lên tỉnh, Hiệp ăn ở trong nhà ông Pháp. Tối tối, ông Pháp đưa Hiệp dạo phố chợ, vô quán uống cà-phê ăn hủ tíu, thăm các chỗ quen biết. Đôi khi họ đi xa tới vùng ngoài châu thành, đường đất không điện với những ngôi nhà cổ lâu đời khuất sau các hàng rào dâm bụt. Ông Pháp bận bà ba lụa trắng, túi áo trễ lủng lẳng bịch thuốc Gò vấp và hộp quẹt máy, nhỏ thó, dáng điệu lụp chụp, mặt như đứa con nít già héo, lúc nào gò má cũng hồng đỏ, không có râu. Hiệp mặc sơ-mi trắng sờn cổ quân sẫm cũ, lêu đêu chậm chạp bên cạnh ông già. Ông Pháp mê Hiệp ngay từ đầu đối xử với Hiệp như một người bạn thâm tình, mang khoe Hiệp như một món đồ lạ hiếm.

– Ông Hiệp đây là người đứng đắn đàng hoàng. Tôi bằng lòng ông Hiệp lắm. Ông mới di cư vô. Sao vậy ông ? Ngoài Bắc không yên sao ? Có thiệt giống như trên báo nói không ?

Hiệp cười, lấp lửng. Bị gặng hỏi, trước mặt đông người, anh đáp vắn tắt cho qua chuyện :

– Thiệt. Nhưng nói khó ai tin...

Hiệp không tìm cách thuyết phục người khác. Anh tránh đả động đến những câu chuyện có tính cách chánh trị. Ngay với tôi, khi tôi tìm đến Hiệp với những nghi vấn xác đáng, những vấn đề được đặt nghiêm chỉnh, anh cười và nhìn tôi nhiều hơn là trả lời. Gặp nhau lâu, tôi nhận thấy không phải anh thiếu lý luận bằng chứng, không phải anh không có lập trường. Thái độ lờ mờ, khép kín của Hiệp, theo tôi, chỉ biểu lộ mặc cảm tự tôn đáng ghét. Có lẽ anh coi chúng tôi là những người nông nổi, nhẹ dạ, dễ tin nên cũng dễ bị lôi cuốn thay đổi chính kiến, không đáng bận tâm. Tôi không chịu nổi thái độ khinh khỉnh ấy.

Ông Pháp tìm mọi cách lưu giữ Hiệp ở luôn trong tỉnh. Ông lo chạy mướn nhà giúp Hiệp, cho mượn đồ đạc, ông sốt sắng tới độ tỏ ý không hài lòng về căn nhà mướn của má Diệp dù Hiệp rất thích.

– Ông ở đỡ đó thôi nghe. Rồi tôi sẽ kiếm cho ông chỗ tốt hơn. Thiệt đó, nhà ấy xui xẻo lắm. Tôi sẽ làm mai cho cô vợ về lo dọn dẹp nhà cửa...

Ông cười ha hả đắc chỉ giữa đám học trò giờ chơi bu quanh Hiệp hỏi chuyện. Hiệp nói anh đã có vợ và sẽ mang vợ lên. Ông Pháp ngạc nhiên.

– Vậy hả: Tốt. Cô ấy lên luôn trên này. Tốt lắm.

 

 

Ông Pháp, ngoài sáu mươi, giáo viên hồi hưu, trông nom trường cho đứa con trai thứ ba bị động viên. Con thứ hai của ông chết yểu, vợ y lấy chồng khác, trả hai đứa con gái nhỏ cho vợ chồng ông nuôi. Con thứ tư tập kết, đưa thứ năm làm thợ máy dưới Chợ-lớn và cô gái út làm bé một công ty thuế vụ. Vợ chồng ông và hai đứa cháu nội mồ côi ở trong ngôi nhà cũ già bằng tuổi ông với đồ Tất không bao giờ thay thế, nằm lọt giữa hai dãy lớp lầu bằng gạch, quay lưng ra một lạch nước thường cạn sình đen, rác rưởi xú uế do xóm nhà trên bờ đối diện trút đồ, chảy ôm bọc cả khu trường. Hồi tôi học ở tỉnh, nửa sau ngôi nhà còn đặt một lớp học ngăn bằng vách phên, những giờ buổi sáng, tôi ngó thấy gió thổi trên các ngọn cau bên bờ lạch, mấy căn nhà lá lúp xúp, nghe rõ tiếng dọn dẹp lịch kịch trên nhà và tiếng con trẻ chốc chốc reo cười bên kia bờ đất. Mỗi sáng, khi học trò đã vô lớp, ông Pháp ở trần, bận quần xà lỏn da thịt nhăn nhúm như trái táo khô, miệng bập bập điếu thuốc vẫn, một mình lau chùi bàn ghế sập tủ trạm trổ đã lên nước đen nhánh. (Bà Pháp từ dưới trái bếp lên đi qua cuối lớp nhai trầu bỏm bẻm, bà dừng chân nghe mấy ông giáo sư giảng bài mủm mỉm cười như một thú giải khuây tạm quên những công việc bận bịu). Sau đó ông ra vườn chỉ bảo chú Tư dọn sửa, tưới cây - chú Tư làm vườn kiêm tùy phái của trường. Khu vườn là vùng cấm địa đối với bọn học trò, những giờ nghỉ chỉ vài ba đứa con gái dám lén ra ngồi tuốt dưới những gốc dừa phía góc vườn tâm sự. Từ ngoài vườn trở với ông ghé mắt dòm qua các cửa số lớp, canh chừng học trò, tới xem xét vu vơ nơi công trường, nhìn ra một ngõ trải sạn chạy giữa hai biệt thự quay mặt ra con phố chính dẫn vô tỉnh. Giờ chơi ông chống nạnh đứng trên thềm la bọn nhỏ quấy phá cây cối của ông hoặc ngồi thu cẳng trên ghế, ôm hộp thuốc vấn, trò chuyện với mấy ông giáo sư. Tiếng ông rổn rảng, lúc nào ông tới đâu cũng có hai con chó vện mập nhẩy quẫng quanh chân. Ông nạt nộ mấy con vật thân như nạt nộ con nít. Bà Pháp lo việc bếp núc tối ngày chui dưới trái bếp bên rìa vườn. Đôi ba đứa học trò, những khi tới trường trước giờ vô lớp, bu quanh bà, coi bà làm việc, nghe bà kể tội ông chồng độc đoán hành hạ bà mấy chục năm, những nỗi khổ tâm vì con cái bất hòa với ông bố dữ dằn. Buổi tối bà lên nhà trên, trong khi hai đứa cháu lo học, mấy ông giáo sư ngủ đậu soạn bài, ông ngồi giỡn với chó mèo, bà ôm hộp trầu và cái ra-đi-ô nghe cải lương nho nhỏ.

Ông Pháp là người tính toán chỉ ly, ngay cả với vợ con. Ông thường chê trách người con trai thứ ba - chủ ngôi trường - ăn xài quá lố, vợ lớn vợ bé. Hai bố con mỗi bận giáp mặt là gây gổ, cả hai giống nhau đều nóng như lửa. Hồi sau này, người con được giải ngũ, về đòi lại trường, hai bố con giành giựt không ai chịu ai, coi nhau như thù địch. Ông Pháp nói chính ông một tay gầy dựng nên trường, năm con ông đi lính mấy lớp học còn phải mướn đậu trong ngôi nhà bên kia rạch, chính ông là người cất lên những dẫy lớp học mới trên miếng đất nhà của vợ chồng ông. Con trai ông hăm kiện ông vì chính hắn đứng tên chủ trường và đòi thanh toán bằng máu với ông già. Có lẽ tôi là đứa học sinh duy nhất được ông trừ nữa phần học phí, ông thường biểu vì lẽ tôi thông minh, học giỏi. Nhưng người trong tỉnh thình thoảng vẫn còn nhắc lại hồi thanh niên ông thương má tôi nhưng gia  đình không thuận. Tôi không thể tưởng tượng hồi trai trẻ ông Pháp như thế nào và tình yêu giữa ông và má tôi sao. Có khi tôi nghĩ bậy ông có thể là cha tôi chăng?  (Tôi có thể là đứa con của một cuộc ngoại tình chăng ? Tôi không là con của một ai ngay cả người đã chết. Những nghĩ quái gở quay lộn trong đầu biến tôi thành một người khác. Không ai sinh ra tôi như ngày nay).

 

Từ nhà đến trường hằng ngày Hiệp đi, chân khoảng trăm thước trên đường quốc lộ dốc nghiêng một phía tới gần nhà ga trông như bãi hoang với đường rầy toa goong bỏ không dưới chân một ngôi đình cất trên gò, rẽ xuống ngõ đất rộng hơn lộ, giữa hai xưởng sơn mài, nối đến con phố chính và đối diện với ngõ vào trường; bước thong dong không chủ ý đến sự vật quanh mình, thường khi không thấy những đứa học trò đạp xe máy vượt qua một ngả nón chào. Thỉnh thoảng vào buổi sớm, Hiệp xuất hiện từ bờ sông đưa Thuận vào chợ, rồi mới tới lớp. Trong giờ nghỉ, Hiệp vô nhà uống nước, nói chuyện với Ông Pháp (Ông già cười vang khoải trả, nói giỡn oang tang.) Giờ tan, Hiệp nán đợi ít phút cho học trò tản mác mới thủng thẳng ra ngõ. Nhiều đứa hiếu kỳ dừng xe đợi thây ngoài đầu ngõ, theo chân hỏi chuyện dọc đường về. Những buổi tối mùa nắng, Hiệp và Thuận đẩy xe đến xin được mua nhà ông Pháp. Chiếc xe đỗ bên lu sành bự chưa đầy nước hứng từ mùa mưa trước dọc theo vach nhà. Trong lúc Thuận cùng hai cô cháu ông Pháp lo chuyên tước vỏ thùng, Hiệp theo ông Pháp ra vườn, đứng dưới mấy gốc cau, gốc dừa, đôi khi lẫn vào tàn cây măng cụt chuyện trò. Tiếng đối đáp lẫn trong các đám là và bóng tối yên tĩnh, lâu lâu tiếng cười của hai người nổi lên, tiếng cười của Hiệp kéo dài, lắng xuống theo những nhịp ngắn, Phố đã vắng chiếc xe nước mới ra khỏi ngõ trường, bánh sắt đè nặng trên mặt đường nghe rõ lớp nhựa trải nhăn nheo, nước sóng vỗ phình phình trong thùng. Dáng Hiệp thẳng, tay chống trên then ngang của càng xe cao đến bụng; Thuận đi bên tựa một tay đẩy phụ, mảnh mai trong tấm áo cụt trắng, (xe nước phải đẩy vòng theo các đường phố không theo lối tắt thường ngày của Hiệp); hai chiếc bóng nghiêng ngả qua những quãng sáng tối đều đặn của điện đường bên những tiếng động lạ tai giữa hàng phố chừng im ngủ.

 

Hiệp có thói quen đưa Thuận đi dạo lúc sẩm chiều trên quãng đường ngoài bờ sông, lên những dốc quanh trên khu đồi cây cao che giấu các công thự, đồ xuống nhà thờ, nhiều khi vượt khỏi cây cầu xi-măng - đường xe lửa sét rỉ nằm dưới trũng, hai bờ dốc đầy cây gai cổ đại -vào con đường lia khỏi châu thành. Họ cách nhau một khoảng chiều ngang hoặc trước sau một vài bước, ít khi sánh vai, cũng có lúc Hiệp nắm cánh tay Thuận đưa qua đường, cử chỉ âu yếm mà vẫn chia cách, họ nói với nhau những câu ngắn nhỏ, Hiệp hút thuốc ngó phía trước, còn Thuận chẳng biết đặt mắt vào chỗ nào. Thuận ưa mặc áo dài đen, như một vệt loang tối sớm trên đường đi, búi tóc trễ lệch bên vai dễ nhận biết từ xa. Một lần tôi theo dõi hai người suốt buổi chiều. Trước tiên tôi nhìn thấy họ như hai bóng im giữa một vùng hoang tĩnh, họ không ở đây. Đi mãi tôi cũng nhẹ loãng như một cái bóng nữa, quên ý định của mình. Tôi ngồi lại trên phiến đá sau nhà thờ, nhìn bóng tối bò dần từ duới vũng bờ bụi nơi đường rầy lên mặt đường dưới chân gò ; Hiệp và Thuận xuống con đường đất dẫn vào đồng ruộng và làng xóm kế cận châu thành; tôi ngồi chờ nghe chuông đổ hồi vang đập trong ngực chẳng khác nào thân mình là những vách trống (Tôi không hiểu tôi ở đó làm gì) Hiệp và Thuận ở lại trong con đường đất rất lâu tưởng như mất tích.

 

Mấy lúc sau Hiệp thường cùng ông Pháp ghé thăm một ông già Tàu bại xụi, suốt ngày nằm chết trên ghế xích đu trong căn nhà ngay đầu góc phố chợ. Từ ngoài ngó vô, gian nhà thụt sâu, tối om, bóng điện đỏ ké trên kệ thờ, ông già Tàu nằm như tượng quay mặt ra hè chắn cửa. Ông sống một mình trong không khi thâm u với cô con  gái nuôi săn sóc. Ông Pháp và Hiệp bắc hai chiếc ghế đẩu quây lấy ông. Chỉ mấy phút đầu người ta thấy bóng cô gái nuôi mang nước mời khách, rồi biến lủi vào bóng tối bên trong. Ông Pháp nói cười mạnh bạo nhất, đôi lúc khuya, tiếng cười của ông kéo cái bóng im lìm nhỏ nhắn của cô gái ra khỏi một nửa bóng tối. Ông già Tàu không rành tiếng Việt, ông Pháp vừa nói cho mình vừa làm thông ngôn cho Hiệp. Đôi khi vắng ông Pháp, Hiệp cũng ghé tới một mình và những bữa ấy không nghe tiếng chuyện trò. Giữa hai người đặt một ấm trà. Hiệp ngồi đối diện với người bệnh cả giờ. Ông già Tàu là một triệu phú, gia tài đã chia hết cho con cái, chúng lo kinh doanh không đứa nào gần ông. Ông về tỉnh sống với đứa con nuôi tận tụy, nằm đợi chết, bị bỏ quên. Mới đầu tôi phỏng đoán Hiệp mê cô gái con nuôi ông Tàu, bây giờ tôi nghĩ Hiệp chỉ muốn nhìn sự vật trong thề tĩnh, muốn loại trừ những náo động trong tâm bằng cách tạo sự lặng lẽ quanh mình. Cô gái Tàu đẹp lầm lỳ. Nước da trắng xanh của người ít ra ngoài ánh sáng, mắt một mí như sưng mọng, miệng nhỏ chúm lại như một búp hồng. Tấm thân uyển chuyển, nhịp nhàng với mái tóc cụt, vẻ quý phải bất ngờ trong dáng điệu. Tên cô là Hàng Duỳn.

 

Buổi chiều thứ bảy thật dài buổi chiều Thuận đến thành phố hai ba tháng sau Hiệp. Ánh nắng tưởng không bao giờ tắt, gió sông thổi như hơi sốt, trong thành phố nhịp động một niềm rạo rực ngượng ngập. Ngày nghỉ ở tỉnh nhỏ như cơn băng huyết làm bộ mặt xanh xao thêm. Những chuyến xe về Sài-gòn đông chật. Tôi lẩn quẩn các phố, khắp tỉnh, không biết phải đi đâu với nỗi nhớ nhung cào cấu trong da thịt. Một sức đẩy trong thân tới nhập với kẻ nào đó sẵn sàng ôm ấp lấy mình cùng tan hòa trong nhịp thúc hối cơ thể. Nỗi nhớ nhung luyến tiếc xô rớt xuống vũng mịt mùng cảm giác, những chấn động mãnh liệt phủ mờ, làm biến dạng và triệt tiêu đối tượng. Dục tình như khoảng rừng già ngút ngàn trong bông nắng, cô đơn xum xuê và khô héo.

 

Trưa đã đi qua, bầu trời không mây vẫn tỏa chói, Lúc bấy giờ Diệp đã về nhà, căn nhà mát mẻ, kiến trúc mới, hàng rào cây thưa bên mặt nước sông đầy. Và Diệp im lìm trên giường trong nỗi mông lung của giấc ngủ muộn trái giấc chắc chắn úp chụp xuống, ủ kín mở cảm xúc hỗn độn tự ghi sâu bằng tưởng tượng. Mái tóc xõa rối, mắt cháy thầm, Diệp ngủ như một tàu dừa trong cơn giông, khua động xơ xác. Dù sao Diệp cũng ngủ được trong vòng che chở của gian nhà kín đáo, thân tình, mỗi xó góc đều đang thở hút, gìn giữ bầu không khí của một gia đình nền nếp được tạo dựng từ mấy đời mang theo khắp chốn như hành lý quý báu nhất. Ba Diệp là Trưởng ty Công chánh, thời trẻ ông được ra Hà nội học làm công chức đổi khắp đó đây đã sang Lào, ra Côn Đảo. Má Diệp đẹp xuề xòa, đeo cặp mắt kiếng trắng nhỏ; trong vẻ tươi cười dễ dãi của người nhiều tuổi vẫn phảng phất những nét kiêu hãnh của một thời con gái. Các anh chị của Diệp đều làm nên, có gia đình riêng, Diệp thường tỏ ý mong ước tin tưởng tôi cũng sẽ thành đạt như anh chị trong gia đình nàng.

 

Tai sao anh lại học toán? Anh học luật hay học sư phạm đi, nếu anh không thích y, dược? Anh chẳng biết học cái gì hơn là học toán? Anh tính làm giáo sư? Không khi nào. Giáo sư giống như ông giáo Hiệp của em hả? Không. Anh học chơi vậy. Học chơi? Ờ, học chơi không có việc gì học chơi đó, cho đỡ buồn. Tôi không thể nói với Diệp là tôi không đủ bình tâm đề có thể ngồi học hàng chục năm trời kiếm mảnh bằng và chức nghiệp trong xã hội. Tôi không thèm cái tương lai, cái địa vị mà xã hội trưởng giả đốn mạt sẽ dành cho tôi. Nàng đừng hòng lôi cuốn tôi vào cạm bẫy của nàng. Tôi yêu Diệp, nhưng Diệp cũng chỉ là sự mời mọc của một nơi chốn tôi ghê tởm trốn tránh. Càng lâu Diệp càng chìm khuất vào trong đời sống bao vây nàng, không còn là người thiếu nữ tôi nhìn thấy qua hàng chấn song nhà tù. Diệp. Diệp. Không thể được. Anh không thể theo em. Tôi phát khùng, tôi biết tôi mất nàng từ trong tôi. Không, không khi nào anh đầu hàng Diệp ơi.

 

Buổi trưa thứ bẩy ấy, chúng tôi đã ngồi trên phiến đá nơi gò cao sau nhà thờ. Trong mắt Diệp, thành phố say nắng núp kín. Dưới chân chúng tôi, mặt đường nhựa lỗ dỗ hoa nắng nhảy nhót. Vũng đất sâu, bờ dốc cây gai chằng chịt chen lấn bò trườn phủ con đường rầy, đá xanh lồn nhồn, những chuyến xe lửa đã thôi chạy qua từ hồi chiến tranh. Rời nơi đó, chúng tôi xuống ngôi chùa khuất trên con đường đất. Diệp vận bà ba, quần đen, đội nón, ép mấy cuốn tập trên ngực. Diệp được nghỉ học bất ngờ vì Hiệp đi vắng và tôi bỏ ý định xuống Sài-gòn. Chúng tôi ngồi nơi thềm sau liêu vắng, ẩn trong kẹt bể chứa nước bám rêu. Nền gạch cát bụi nhưng sạch. Những dãy cửa gỗ trai phòng đóng kín. Chúng tôi gây nhau vì một chuyện gì đâu. Diệp bỏ ra ngoài sân chùa. Tiếng guốc nghiến lao xao trên sỏi vụn. Diệp ra tới cổng, đứng dưới gốc đa già, rễ chùm buông thõng. Diệp tránh tôi, tiến sát bờ ruộng khô đất mới bừa, tơi nữa trên bờ đất lồi lõm đắp giữa hai thửa ruộng dẫn ra ngôi miếu hoang trên bãi cỏ cháy giữa đồng. Diệp bước vào giữa vùng nắng đang tỏa bốc ngùn ngụt rung rinh trên khắp mặt đồng. Nàng trọt chân, đứt guốc, nhấc cầm lên tay, chân dẫm phải đất bỏng nhảy nhỏm. Thốt kêu, thốt cười, thốt tuôn chạy. Chúng tôi đón gặp nhau trong miền. Tôi quỳ phủi cẳng cho Diệp, nắng vây tối hết cảnh bên ngoài, Diệp cười ngặt nghẽo, mồ hôi đình ướt trán, tóc xổ tung, mềm đi, trơn truồi trong tay tôi, níu lấy tôi, mặt ngửa ưỡn, thân dài thêm, mắt nhắm khít không muốn nhìn,.

- Đừng, đừng. Anh.

Diệp bất giác và tôi đột nhiên khựng lại, không tiến nữa, đợi Diệp hoàn hồn. Nàng hé mắt, mỉm cười hân hoan, ôm bàn tay tôi áp lên mà nàng, cám ơn anh, áp lên ngực phập phồng anh coi tim em đập dữ không? Ngoài cửa miếu, một con ngựa gầy gò thả hoang chậm rãi nhai cỏ, đuôi quật nẹt nẹt vào không khí, thỉnh thoảng thở phì phì. Tôi ngồi thẳng lên mặc cho Diệp âu yếm lấy khăn tay của nàng chùi mồ hôi trên mặt tôi. Hồi sau tôi nói:

-Về thôi.

Diệp xách guốc lủi thủi theo sau, thấy tội nghiệp. Lên tới đường nhựa, tôi bước mau bỏ Diệp, tính trở về nhà, tìm chỗ nằm ở góc vườn khuất gần miệng giếng đào, nơi đó hương cỏ thơm hắc, những trái điều đỏ trên thân cây nghiêng là xuống bờ lạch như một cây cầu cụt, nơi tôi vẫn lăn lộn như một con vật cuồng cẳng trong những buổi trưa ngộp thở, thúc cơn dâm trơ trọi thoát mau khỏi thân xác, để chỉ còn thấy mình đọng lại như một vũng nước nước ứ bẩn thỉu nhơ nhớp. Nhưng sự căng thẳng của thần kinh và xác thịt làm tôi tê mỏi bứt rứt loanh quanh.

 

Tôi vô tiêm thọc bi-a đơn thân. Bên cạnh hai đứa nhỏ đang chơi banh bàn nhấp nhôm la hét với nhau. Ba trái cầu gỗ lăn đi lăn lại trên thảm, va động vào các cạnh bàn, vẽ những đường chuyển động rắc rối. Tôi xoay quanh chiếc bàn hình chữ nhật vuốt ve cây gậy, ngắm nghía cẩn thận từng đường banh trước khi đánh. Nắng vẫn sáng trên chòm cây ngoài hè như hồi tưởng chờn vờn trước các giác quan. Quầy trống không người, những hộc gỗ gắn trên tường đặt những chai nước ngọt, xanh, đỏ, vàng chen lấn, màu sắc đơ dại như khích động vu vơ. Từ trong nhà, một chiếc “transistor” đang truyền lại những bài hát được yêu cầu với một lũ tên họ kêu vang bâu chung quanh như đám muỗi trên bóng điện đường phố -Tôi không ở đây, không chút gì quyến luyến tôi vẫn bị đầy vào chân không với nỗi ham muốn mờ nhạt. Tôi nghĩ đến Diệp, nếu tôi đã vô sâu hơn trong đời nàng tôi sẽ tới đâu, tôi còn đủ can đảm tàn nhẫn từ chối Diệp, từ chối cuộc chung sống với những giá trị tôi coi rẻ nhưng là một phần của con người Diệp không? Tôi nhớ đến người đàn bà nhớp dính trong ngõ hẻm lội, trong căn nhà sàn op ẹp trên sông, bên ngọn đèn lay lắt, tiếng chuột chạy lịch kịch đụng đồ chiếc chậu nhôm, mùi hơi người trộn lẫn với nệm dỡ hôi mốc, đã dạy tôi một cách tỉnh táo bỡn cợt cách xử dụng thân thể như một lối mộng không hình ảnh, trùm lấp mọi ý tưởng bằng những hồi xô đẩy, tuyệt vọng không thể kéo dài. Lát sau một bọn thanh niên nhàn rỗi kéo vô chật ních vây quanh tôi, bộ tịch hớn hở vui thú, tiếng nói cười cọc cằn úp mở, mang theo dáng vẻ ngày nghỉ ở tỉnh đang dần hiện từng khoảng trong các quán nước, nghèo túng và phiền muộn.

 

Tôi thả ngược về lối chợ. Quán sạp cái đóng, cái mở. Giữa những xấp hàng chồng chất, vài mặt người nhìn qua màu nắng không rõ nét ngồi chóc ngóc. Tiệm tạp hoá, chạp phô, tiệm sắt, tiệm hớt tóc, tiệm thuốc bắc, tiệm may, thợ sửa giày, sửa khoá ngoài hè lẫn với đám thúng mủng trái cây... tất cả buồn tẻ ngài ngủ. Trên nóc chợ, mặt đồng hồ lớn kim chỉ mười một giờ ba phút từ ngày này qua ngày khác. Ngoài bến xe, thấp thoáng màu áo lạ từ Sài-gòn lên kiếm mua trái cây nhân chuyến đi chơi xa, vài bóng tươi thắm vay mượn nghịch mắt trên một nền vàng đều đặn của phố lỵ.

 

Tôi trông thấy Hiệp bước xuống từ chuyến xe lô vừa ghé bến cùng một người đàn bà lạ mặt, tôi đứng trong hàng hiên trạm thông tin, Loa phóng thanh trên máy vừa ngưng tiếp vận chương trình ca nhạc của đài Sài-gòn và một giọng rè rè đọc bản tin tức hằng tuần và thông cáo của tỉnh. Căn phòng hộp đặt trên hai đường chéo góc so với hình khối của chợ và toàn thể kiến trúc của con phố bị xẻ đôi, cửa kính sơn trắng đục, biểu ngữ cũ như vải, bích chương rách toạc từng mảnh lớn. Hiệp dáo dác kiếm xe, người đàn bà quan sát dè dặt cảnh vật quanh mình, chiếc va-ly da đặt dưới đất. Nàng mặc áo dài trắng mộc mạc như mặt không một nét trang điểm, nước da xanh, mắt dài nheo lại, sống mũi thẳng xuôi, môi cắn chỉ, một vẻ đẹp chỉ cần nhìn thoáng đã thân quen, lập lờ trong bóng dâm như một khoảng sáng mát. Thuận đó, “Chị đến tỉnh, mới thoạt trông, cảm tưởng như người lâu ngày trở về xứ. Tưởng như người bỏ đi từ hồi nhỏ, quên hầu hết cảnh vật quê hương”. Tôi đã nói vậy với Thuận, vẻ bỡ ngỡ của người muốn tìm lại trí nhớ. Hiệp kêu xích-lô cho Thuận, đặt va-ly dưới chân; mượn chiếc xe máy của một học sinh đứng chơi kế đó đạp thủng thẳng theo bên xe. Lúc ấy thân tôi tĩnh xa vắng hoàn toàn.

 

Thuận ít ra ngoài một mình, ít giao thiệp với xóm giềng. Diệp là người bạn độc nhất lui tới với Thuận. Mỗi lần Hiệp phải xuống Sài-gòn vắng, anh ghé trường nhắn Diệp tới chơi; Diệp mang sách báo cho Thuận mượn, thường khi ở lại cho đến lúc Hiệp trở về, về thoạt nhìn thấy quen ngay trong buổi đầu của Thuận, dần dần tôi ngó thấy nhạt đi nhường chỗ cho vẻ đắm chìm bí ẩn. Tiếp tôi, Thuận thường ngồi nơi bàn máy làm việc, tấm lưng gầy quay lại như một bức vải kín. Bàn tay ngón dài cử động khoan thai, nắm giữ bánh xe quay, móng tay nhọn trắng ngà gạch những nếp dấu trên mặt vải, như vờn trên sự vật. Khi nào có Diệp, Thuận tới ngồi chung ở bàn khách, Diệp trở nên dịu dàng đằm thắm thêm; Thuận và Diệp hoà lẫn, ẩn hiện, chấp chời như một song tấu, dẫn dắt nhau theo những biến điệu phong phú.

 

- Cậu không thể nói chuyện gì khác chính trị hay sao?

 

Thuận trách, nhân bữa Hiệp vắng mặt tôi hỏi cớ sao Thuận di cư. Tôi lúng túng ngượng nghịu thật sự. Với người khác hoặc tôi nổi giận biện luận đến cũng cho ra lẽ hoặc tôi khinh bỉ im lặng không thèm chấp. Tôi có thừa những luận chứng rằng ngày nay người ta không thể sống ngoài lịch sử, ngoài chính trị, dù muốn hay không; thoái thác chính trị là thái độ ngày thơ ấu trĩ, thái độ ấy là đồng lõa với phản động. Tôi đã học được rằng sự ngây thơ hồn nhiên cũng là một tội lỗi và tôi tâm niệm tôi phải sống sáng suốt, dám lựa chọn. Nhưng trước cặp mắt luôn luôn mang vết quầng thâm, tia nhìn thẳng và xa khuất của Thuận tôi ngồi im không cãi, Thuận chĩu nặng ở tôi như một vùng quá khứ tối tăm không phải của tôi, Thuận như món kỷ niệm của kẻ khác bị thất lạc khêu gợi những tình tự bí ẩn nơi tôi.

Khuôn mặt Thuận có những giây phút sững sờ như nước hồ in bóng một bầu trời hiu hắt của thành phố miền Bắc, tôi chưa hề đặt chân tới nhưng vẫn hằng nhìn trong tưởng tượng, Hà nội. Và mùa thu bâng khuâng trên mặt hồ Gươm, thổi dài qua những đường phố heo may mùa đông rét mướt ngoài cửa ô, mưa phùn gió bấc tê cóng cả trời đất... tôi thấy như tỏa ra trong những dáng vẻ ngập ngừng thấp thoáng của Thuận, Một bữa tôi hỏi :

– Chị thấy ở đây thế nào ?

– Đây hợp với tôi, Sài-gòn ồn quá. Hồi gần di cư tôi mới lên Hà-nội. Thuở bé tôi cũng sống ở tỉnh nhỏ,

Nơi Thuận sinh ra và lớn lên, trong vòm giọng nói của chị, còn hiu quạnh trống trải hơn cả đây. Thị trấn ấy còn cả ngôi thành cổ với dãy tường dài đen xám, hào lũy vây bọc. Phố xá mở cách xa tường thành vài trăm thước, chưa trải nhựa. “Tôi vẫn nghĩ đinh ninh nơi những tử tội bị chém treo ngành trong buổi sáng trở lạnh Nguyễn Tuân đã tả chính là bãi đất trống chạy dài một bên đường tới sát hào thành ở trước cửa nhà tôi.” Nhà Thuận ở cửa Bắc, lưng chừng một con dốc. Trên đỉnh dốc đường xe hỏa chạy qua, bên kia dốc mới thật là thành phố. Từ cửa nhà nhìn ngược lên, dốc bụi như đổ lửa những trưa hè, Thuận thấy cái nhà ga xe hỏa bé của tỉnh lỵ. Chiều tối trong ánh đèn dầu le lói; nghe tiếng còi hú dài, tiếng chuyển động của đoàn tàu từ Hà-nội sang vào ga và sự yên tĩnh mênh mông cổ kính điểm những hồi trống kêu gọi của gánh hát nghèo. Những đêm đông dài tối, nửa khuya về sáng, đoàn tàu từ biên giới xuống, kinh đô không đỗ lại ga xép, tiếng còi và chuyển động kéo lâu mới im tắt. Từ tỉnh về Hà–nội đường cũng dài ba mươi cây số, có thể đi bằng xe tay, bánh gỗ lộc cộc, cánh gà kín bít, trên quốc lộ chạy giữa những làng mạc và cánh đồng - Vào những năm Nhật chiếm đóng, xe hỏa thưa đi ban ngày, xe hơi chuyên chở hành khách mang những ống than khói phun đen nghịt. Thuận kể những chuyện ấy với Diệp, tôi ngồi nghe.

– Chị không nhớ Hà-nội ? Diệp hỏi.

– Có. Nhưng có lẽ bây giờ cho tôi về ngoài ấy, tôi không muốn về nữa.

– Chị không buồn ?

– Không, Trí ạ.

Tôi nhìn Thuận, muốn đọc rõ ý nghĩ của chị.

– Chưa ở đâu, tôi được hạnh phúc như ở đây.

Thuận ngước mắt lên khoảng rộng tối trên mái. Từ xà ngang dọng xuống ngọn đèn trăm nến tỏa vòng sáng yếu đuối của nhà máy điện tỉnh nhỏ trong gian nhà ban đêm. Tôi nghĩ thầm : chị nói dối... nhất định chị nói dối.

 

Tôi không hiểu đời sống chung của Hiệp và Thuận như thế nào, đời sống riêng biệt khi chỉ còn hai người đối diện. Họ nhìn nhau, tất nhiên, nhưng trong mắt nhìn của Hiệp mọi vật đều đồng dạng, mất cá tính, bị đẩy xa, trở nên cứng nhắc, kín chặt và trơ vơ, Hiệp cũng nhìn Thuận như thế sao ? Chỉ khi Hiệp cười, anh như trồi khỏi một vùng mờ đục, kéo theo ngoại vật phơi mở nối kết trong giây lát phù du; có lẽ Thuận thường bảo : Anh cười đi, anh cười đi để em được tới gần, và Hiệp cười, cái cười mở ra sự trống trải. Họ còn nói những gì với nhau, những câu nói thừa thãi và cần thiết như sự xê dịch trong thời gian buồn tẻ. Tôi vẫn thắc mắc về sự bí mật hằng ngày, sự bí mật phô bày không giấu giếm, lại sự thu hút, âm thầm; tôi coi Hiệp là kẻ đối nghịch đáng sợ hơn cả sự thiết lập mỗi ngày một vững của chế độ mới. Tôi bảo Diệp: Ông thầy của em có lẽ về đây vẫn với một nhiệm vụ... Diệp hỏi: Nhiệm vụ gì? Tôi đáp: Không biết. Làm sao anh biết? Nhưng em không thấy là ông ấy có thể ở Sài-gòn. Tại sao ông ta về day ở đây? Ở đây có gì đáng lưu luyến đâu. Trường từ Sài-gòn thiếu gì... Diệp mỗi ngày thêm thân với Thuận bảo : Có lẽ, anh nghĩ đúng. Theo anh tại sao ông ấy về đây ? Tôi nói: Ông thầy của em có thể là mật vụ... Em không thấy ông ta thường vắng nhà xuống Sài-gòn luôn hay sao? Diệp lắc đầu : Em không tin, em không tin. Nhưng ông ấy về đây làm gì chớ ? Tôi sẵng giọng: Ông tuyên truyền bọn học trò, tuyên truyền em. Ông dạy em những gì em nhớ không ? Diệp không tin, nhất định không tin; không phải, Diệp nói và tôi bảo Diệp là đàn bà, không hiểu chút xíu nào về chính trị.

Một vài lần trở về trường ông Pháp, tôi gặp Hiệp trên lối đi, vừa thoát mau khỏi một lớp học, hoặc trong văn phòng khi Hiệp ghé hỏi Lang một hai điều; tôi thường đứng bên cạnh bàn làm việc của Lang, ngó ra sân nhìn Diệp thơ thần cùng hai ba đứa bạn trong giờ chơi; Lang lễ phép chào đón Hiệp, Hiệp đưa tay cho chúng tôi bắt ; trước mắt Hiệp tôi nghe mình trở khác như một hòn đá vô hồn.

Buổi lễ phát thưởng cuối năm được tổ chức tại rạp hát. Rạp gần đổ nát nằm trong một con phố khuất xe hơi không qua, bên cạnh bãi đất trống rác rưởi, sình lầy với những đám cỏ khô chết, ngày thường chuyên chiếu phim Ấn độ, Trung-hoa, phim cao-bồi, khoa học giả tưởng rẻ tiền, giá đồng hạng ba đồng, vào giấc chiều cho đám khán giả phần đông là con nít, trai gái bình dân (những người trung lưu khá giả vào ngày nghỉ xuống Sài-gòn xem hát trong những rạp thường trực của thủ đô) - lâu lâu một gánh cải lương ghé lưu vài đêm. Mặt tiền rạp hình chữ nhật phẳng đứng, viền nổi hàng tên hiệu bằng điện đã hư, chữ còn chữ mất, để lại những dấu lở trên tường cao - mở khoét bằng một khung hình thang vuông đặt nằm trên đường cao. Bên mặt dán bích chương quảng cáo, bên trái lỗ tò vò bán giấy khán giả đứng ngoài hè mua dễ dàng. Trước cửa rạp không hàng quán, sạp thuốc lá bánh kẹo, sạp báo, xe nước đá ở ngã ba quẹo vô chợ, chỗ bến xe thổ mộ, cách rạp vài chục thước. Khoảng hành lang ngoài khán phòng, gạch bông đất bám dầy từng bệt, trẻ nít lê lết nằm ngồi; trên tường bảng gỗ đóng mắt lưới đính hình ảnh màu sắc hoen ố lem luốc, năm ba tấm hình phóng đại các tài tử Mỹ-quốc treo cao cũ mốc khó nhận diện. Ghế trong phòng xiêu vẹo cập kênh cầu thang lầu ọp ẹp, ván lầu rung rinh muốn sụp mỗi khi bọn nít nhỏ reo hò vỗ tay giậm chân. Phòng thừa sáng vì các khe hở quanh vách bịt bằng những tấm chăn dạ rách, những lỗ hổng trên mái - quạt trần kêu kẽo kẹt mùi nồng nực khai ẩm lùa vào từ bãi đất, nhà cầu kế bên. Tấm màn buông trên sân khấu xanh dương loang lổ nước mưa, nhàu nát như cái nùi giẻ lớn.

Buổi lễ trọng thể, đầy đủ thân hào nhân sĩ trong tỉnh : ông tỉnh trưởng, ông phó, các trưởng ty, Hội đồng xã, các hiệp hội, phong trào, cha sở, phụ huynh học sinh... Cảnh huyên náo luộm thuộm, mọi người đều chuệch choạc, cứng nhắc không quen với cuộc vui. Ông Pháp bận đồ tây trắng, hàng bóng nhão, lúng túng phùng phình, miệng cười ngỏn ngoen, mặt mày đỏ gay, chạy lui chạy tới đón tiếp thượng khách, la dẹp bầy con nít ; đọc một bài diễn văn ngắn, một tay cầm giấy run lật bật, một tay cầm khăn thấm mồ hôi trên trán. Ông tỉnh trưởng trịnh trọng trong bộ da xám, trợt chân trên những bực thang hẹp dẫn lên sân khấu, ứng khẩu ban huấn từ thiệt dài, đi từ văn minh nhân loại hiện đại bắt qua lịch sử dân tộc, đến tình hình xứ sở và kết thúc bằng các khẩu hiệu tuyên truyền và đạo đức. Lang cũng đồ lớn, giầy trắng mũi nhọn, gài một bông hồng thẫm trên ve áo, đóng vai giới thiệu chương trình. Hắn bước từ tốn nghiêm trang, nhưng cái sàn sân khấu quá cũ ván kêu cót két dưới chân khiến bọn nhỏ mặc sức cười mỗi lúc hắn xuất hiện. Ba má Diệp ngồi trong hàng ghế đầu. Thuận cũng có mặt, nàng ngồi ngoài cùng hàng ghế thứ nhì, dành cho giáo sư nhà trường bên Kim Huê. Thuận như một khoảng tĩnh êm trong cảnh hỗn độn. Kim Huê nổi bật chướng mắt: áo dài đỏ thẫm như mầu son môi, tóc vấn kiểu cách cao xù, chốc chốc quay sang hỏi chuyện Thuận. Tôi đứng dựa cột sau Thuận vài hàng ghế cùng mấy đứa bạn học cũ, đã thôi học; đứa làm thư ký trên đồn điền cao su, đứa làm cán bộ diệt trừ sốt rét, đứa đang theo học nghề y tá, đứa đợi kết quả thi vô trường sĩ quan. Chúng phẩm bình hết bọn học trò con gái đến Kim Huê và Thuận bằng giọng điệu đàn ông lọc lõi như khi ngồi trong quán cóc ngoài bến xe, uống hết hai chục chai la-de (nhậu đi mày, món này đưa cay, đã lắm, cạn một hơi, khà, chẳng mấy bữa, nhậu xong tìm em út há...), tôi im lìm và chúng có vẻ nề vì tôi, vì tôi học hơn chúng, đậu bằng cấp. Tôi cười thầm, buồn một mình, càng ngày tôi càng tiến xa trên đường học vấn và tôi trở thành thứ loại gì ? Những trí thức làm xàm đầy mãi lên cao trên một vùng trời hun hút chóng mặt, nhìn trở xuống cách biệt hẳn với đám bạn hữu ngày nào. Giữa chừng mấy đứa rủ nhau bao xe xuống Sài-gòn kỷ niệm buổi gặp mặt. Tôi ở lại, cuộc vui mỗi lúc thêm tưng bừng.

Giữa chừng mấy đứa rủ nhau bao xe xuống Sài-gòn kỷ niệm buổi gặp mặt. Tôi ở lại, cuộc vui mỗi lúc thêm tưng bừng.

Vào những phút chót Diệp hát. Bài hát buồn. Qua những lỗ hổng trên nóc rạp tôi không còn nhìn thấy trời và liên tưởng đến không trời đêm trong nhà giam đang loãng theo cùng thời gian. Hình bóng trong trắng của người con gái không quen trong hành lang sáng trưng suốt đêm bám quanh mi mắt mệt mỏi, bây giờ nhập vào dáng mềm mại trên sân khấu (màu áo xanh nước biển). Ánh đèn hắt từ một góc cao xuống ôm lấy khuôn mặt trong một nền âm thanh – những lời than thở vu vơ của một ai khác – mái tóc đen đỡ gáy. Tiếng hát vang như giấc mộng đẹp vẫn bị nhốt kín thoắt bay choàng siết thân Diệp, cuốn đưa nàng đến vùng trời huyền hoặc khiến không ai nhận nổi mặt. Tiếng hát dẫn dụ tôi vào nơi xa lạ riêng tư không chia sẻ, tôi rùng mình ngẩn ngơ, tự hỏi : Phải Diệp đó chăng ? Ở dưới đáy Diệp cũng giấu nỗi buồn lớn lao đến như thế nào ? Hát xong Diệp bỏ chạy vào trong. Bọn con trai hoan hô nồng nhiệt, bis, bis, chị Diệp. Thuận ngó lại phía tôi mỉm cười đồng lõa.

Phải Diệp đó chăng ? Tôi nhớ buổi chiều đứng trước ngôi chợ nhỏ không người trên đường về tỉnh, đối diện là dãy nhà gạch lụp sụp không điện, con đường nhựa chia cách mở về hai phía đồng ruộng hiu quạnh; tôi đã đi chân từ dưới chân dốc cầu gỗ, (một đầu cầu mọc cái bốt gạch cao tùm hụp, một anh dân vệ vận đồ đen ngồi dòm lơ láo trong buổi chiều nhạt, dưới chân bốt cỏ rậm len lấn leo lên các khe gạch, dòng nước bị thu hẹp vì bờ bụi, điều khiển tấm biển lưu thông cho các xe qua lại, nghe tiếng ván cầu lịch kịch dưới sức nặng của bánh lăn), trở ngược đường về đứng đó, đi qua những ruộng mía xào xạc, nhà máy ép mía với cái ống khói phun đen vào những buổi trưa nắng lúc ấy đang lẫn dần vào mầu trời; chuyến xe đưa tôi về tỉnh bị “pan” dọc đường. Nơi này tôi vẫn thường qua, quen thuộc, nhìn từ trên xe chạy nhưng lúc đặt chân xuống tôi lạc giữa nơi lạ, tôi có thể bước tới và đi vào những thế giới nào. Khi trời tối hẳn, tôi đón gặp chiếc xe dip do ba Diệp lái từ Sài-gòn trở về, ông cho tôi quá giang. Ba và má Diệp ngồi trước, tôi ngồi sau cạnh Diệp. Dọc đường Diệp ngồi thẳng cứng, tôi nhìn nàng mờ mờ trong tối, lâu lâu bắt gặp ánh sáng của mắt nàng thoáng liếc, nghe nàng nói chuyện, và tự nhủ: Tôi chẳng liên quan gì đến những chuyện này, những người này. Và một lúc mái tóc Diệp phất tung vào mặt tôi, khô và sơ, tôi tự hỏi : Diệp đó chăng? Phải Diệp đó chăng ? Khoảng cách giữa chúng tôi rộng lớn như cả đêm tối ào ào xung quanh, tôi ngắm những đường nét, cử động của Diệp chập chờn như ảo ảnh.

Trong cảnh huyên náo tuôn chảy ra ngoài đường thoảng, tôi lách mình đi xuống cuối rạp. Rạp vơi dần. Những tiếng nói lớn vang gọi trên hậu trường đang thu dọn, một vài nhóm học sinh còn đùa giữa các hàng ghế. Đêm lùa vào rộng qua các cửa mở trống. Thuận và Kim Huê còn đứng ngóng nơi cửa hông phía bãi trống. Một lát ông Pháp đi ra ngoài sân khấu ngó vào trong kêu: ông Hiệp, ông Hiệp; áo ngoài lột vắt trên tay, sơ-mi ướt mồ hôi dán vào bộ ngực lép, ông đi xuống tiến về phía hai người đàn bà, cười hả hê. Hiệp, Lang, Diệp và hai ba giáo sư khác theo sau ông. Đến chỗ hai người đàn bà, ông Pháp đứng lại, những người khác vây quanh ông. Ông nói chuyện bằng tiếng Pháp với Hiệp, cười ồn ào, dường như chỉ một mình Thuận ngó thấy tôi đứng ở hàng ghế cuối lơ ngơ. Tôi rời chỗ, sửa soạn bỏ ra ngoài, chợt tiếng ông Pháp kêu lớn vang rạp vắng:

– Trí, lại biểu cái coi mày... Mày còn đi học không mày ? Tới đâu rồi ? Ông nói với tôi như hồi tối nhỏ - Má mày mạnh giỏi chớ ? Thằng nhỏ này très intelligent. Chịu khó học nghe mày, Trí. Đừng sớ rớ lôi thôi. Tôi với má nó hồi xưa quen nhau đó – Ông nói với Hiệp.

Diệp xích lui, nhường chỗ đứng cho tôi, vẻ lúng túng vì sự có mặt bất ngờ của tôi. Hiệp mỉm cười, quan sát tôi và tôi thủ thế bằng thái độ thách thức nhìn ngay vào Thuận. Tay bóp lại, ngực hồi hộp tôi không thể không khiêu khích Hiệp, tôi bị ùa lấn bởi phản ứng kỳ quặc không kiềm chế nổi.

– Anh mới về đây dạy học ? Hồi trước anh làm gì dưới Sài-gòn ? Hình như tôi có biết một người quen anh ở Sài-gòn.

Câu nói đột ngột, xấc xược cố tình của tôi làm mọi người chưng hửng. Tôi không nhìn thấy gì ngoài gương mặt của Hiệp đứng cao hơn tôi đang ngó tới thản nhiên. Lúc ấy tôi mong không có sự hiện diện của Diệp và Thuận nhưng Diệp lén bóp vào bắp tay tôi, kêu nhỏ :

– Anh Trí. Coi kìa.

Không ngừng được, tôi mất hẳn bình tĩnh, văng mạnh cánh tay giật giọng :

– Coi kìa, cái gì.

Ông Pháp bặm môi trợn mắt - Diệp mắc cỡ thụt lui - quát:

– Trí... Mày...

Tôi vùng quay ngoắt giữa sự ngơ ngác của chính tôi. Trí, Trí, tiếng ông Pháp vang đuổi :

– Chuyện gì đó mày, Diệp ? Thằng Trí nó khùng hả...

Mày điên rồi Trí, mày điên rồi... Tôi đi miết tới bên bờ sông ngòi lại nơi một gốc cây khuất. Sự yếu đuối nhu nhược, dồn cơn hùng hổ cháy bùng trên da mặt và tiêu hủy, xâm chiếm tứ chi. Nước mắt cộm trong mi, tôi mệt như sau một cuộc chạy đua. Mày điên rồi, Trí, mày điên rồi. Trí. Tôi bật khóc, không cách nào ngăn giữ: dưới mắt tôi, nước sông đen ngòm xa như bầu trời trên cao.

 

 

3.

Những ngày hè rảnh rỗi mưa phủ kín, mưa đúng giấc, nhịp bước của thời tiết tiên đoán được. Ngày oi nồng tắt trong màu bụi nước, ánh sáng bôi nhòa cảnh vật như phản ảnh mờ tối; buổi chiều đặc khít trong gió lộng, những cơn trốt cuồng vật mình rã rượi trên đồng ruộng, cây cỏ nặng nhọc. (Có niềm luyến tiếc ray rứt nào tan nát trong không trung); thời gian bị khuấy loãng theo tiếng rì rầm bát ngát – hoàng hôn biến mất, ngày và tối xô đụng. Những buổi chiều bỏ lửng âm u, mưa ở những vùng xa bên châu thành trên vùng đồi cây dinh thự, làng xóm mịt mờ cách sông rạch, trời sũng như tấm áo xám vắt không khô. Từ ngoài sông mưa đột ngột lùa vào, qua các đám vườn, như bước xô chạy rầm rập của một bầy chim không cất nổi cánh (lớn, nặng, tràn ồ ạt), bầy chim rồi bay túa thành khúc điệu tay vỗ bồng trầm miên man; tối ngắn, lạnh, chìm mau xuống vũng khuya, cách trở lầy lội tứ phía, cửa ngõ đóng kín, hai cây đèn cầy nhún nhảy trên bàn, bên ngoài là sự lôi cuốn kêu gọi của thiên nhiên cùng nhau vào cuộc hành trình chộn rộn và hoang vu. Không còn gì hiện hữu ngoài nỗi mông lung của kỷ niệm – kỷ niệm mờ mịt như cảm xúc - tỏa từ mình trườn phủ lên sự vật, những bóng mờ giao động hoài. Cô đơn mọc tủa như lông nhím sợ hãi – mưa dội từng chùm đêm sâu không đáy, hút đi trong những vang vọng – những hồi giục giã âm lên từ điểm, vô cực ngoài ý thức về trong im lìm những đường biểu diễn hư ảo rối rít đánh dấu quãng cách mơ hồ của thức và ngủ. Những tàu dừa bờm xờm ngả nghiêng xô xát, bóng đêm bị dồn đuổi từng chập quanh co. Buổi sáng ẩm, mốc, cũ như đêm vẫn còn duỗi dài, sương trôi từ mặt đồng lụt; mưa sớm lúc nào không hay, tấm lưới trắng mỏng, nỗi chán nản rớt lại từ ngày qua che mờ chân trời.

Tôi tự nhốt mình trong mấy tháng hè đọc sách. Sách, những giấc mộng cô đơn hiện thực của kẻ khác. Cơn hung hãn bền bỉ của hành động muốn nối kết hiện hữu vốn mù mờ, tan tác. Sách, chất ma túy của trí tưởng kích thích khát vọng tưởng tượng, hóa tôi thành nỗi hư vô đòi nhập thể. Ngày tháng bị đẽo đục rơi vụn, diện mạo trong con mắt riêng mình lở lói không còn hình thù. Chỉ rung lên sự mù lòa của từng giây phút chia rời và hủy hoại lẫn nhau; tình yêu mưng như nhọt độc nhức nhối. Tôi thèm muốn, tôi chờ đợi, tôi bất động, tôi ruồng bỏ, ruồng bỏ như một Định mệnh, như một dây trói nghiến vào hư vô, ruồng bỏ hết mọi người, kể cả Diệp. Trước sau cũng không giữ được Diệp, cuộc tình giữa chúng tôi kéo dài thêm chỉ là vô nghĩa. Tôi tự động tránh xa không gặp Diệp và tôi chẳng thể hiểu mình.

Vào một ngày bão rớt cuối mùa hè, tôi sang châu thành. Trời xám thất thần, gió lay ào ào đám cây trên đồi. Đường phố ướt sũng thấp nhỏ. Một cảm giác đột khởi khi đặt chân lên bến chợ hắt hiu, như tiếng động lan truyền mỗi lúc một thêm rõ mạnh: tôi lớn, tôi đổi khác. Mỗi bước đi tôi dấn thân vào nỗi cô đơn rộng mở ôm hết được ngoại giới, tôi có nhiều cặp mắt nhìn mọi phía và trên hết một cặp mắt trùm nhìn mãi tuốt xa theo dõi chính mình. Xóm làng chỗ tôi ở chìm trong cơn mưa bụi, mặt sông bốc hơi lạnh ơ thờ. Những đồ vật, hình thể nhàm chán phô bày xếp đặt theo viễn tượng mới quanh tôi, cả châu thành êm tĩnh như của riêng tôi. Một giấc mộng nào còn xa khuất đâu đâu sẽ hiện tới báo hiệu bằng niềm xôn xao kỳ thú. Tôi gặp Diệp trước ngõ trường, đang hấp tấp đi ra và chạm mặt tôi. Mắt nàng mở lớn sững sờ, tôi thoáng đọc thấy vẻ hoảng hốt bất định. Diệp kêu khẽ: anh, kinh ngạc lẫn bực dọc, rồi quay ngoắt lướt qua mặt. Tôi không kịp phản ứng, chỉ ngó theo. Diệp đi, lúc trên vỉa hè, lúc dưới đường, sau một chiếc xe thổ mộ mỗi lúc bỏ nàng thêm xa, tưởng chừng nàng đuối sức sắp ngã ngồi xuống hè, tà áo xanh nhạt bay quấn quanh chân. Trên xe hai người đàn bà ngồi quay mặt phía sau, mắt ngó lui bất động. Trường học nghỉ vắng đợi ngày tựu, tiếng ông Pháp cười vang trong sân, tôi đứng trân nghe cảm giác trưởng thành tan nhạt dần dần và phiền muộn đắm đuối.

 

Hết mùa hè ấy, tôi cũng không gặp lại Diệp. Vào niên học tôi không còn hăng hái làm việc như năm đầu mới đặt chân lên thềm đại học mặc dầu tôi đã qua được chứng chỉ căn bản. Trong giảng đường tôi chỉ nghe những tiếng động đều đặn vang dội vào tai thay những tiếng ầm ĩ lung bung trong sọ khi ở ngoài phố. Tôi đi chân từ nhà trọ đến trường, khoảng hai cây số, thường lúc trở về tôi thả quanh co các phố đến mệt nhừ mới thôi. Nhiều buổi trưa nắng dội trên đầu cô nhễ nhại, tôi lủi thủi trên các vỉa hè quên cả đói khát. Tôi không hiểu tôi muốn gì, những ý nghĩ bốc hơi trong đầu sọ như nước sôi reo trong âm đồng. Tiếng réo sủi kỳ quái đánh nhịp theo bước làm ngứa ngáy tay chân chỉ muốn đập phá. Tôi hất đá gạch, lon, những món đồ liệng bỏ ngoài lề, nhắc thầm: Mày là Trí, mày là Trí, mày không điên... Sau những cơn cuồng rông là thèm ngủ, ngáp cứng hai thái dương, tưởng rách mép, ứa nước mắt nước mũi. Và giấc ngủ chụp xuống như cùm sắt, như vải liệm xác bó chặt. Những giờ êm tĩnh, nỗi buồn thảm ủ ê bám chặt như đỉa, không buồn cử động xê dịch. Ngày nghỉ, tôi không về tỉnh, luẩn quẩn trên gác trọ một mình hoặc thả xuôi theo dòng người trên các đại lộ ở trung tâm thành phố. Những chiều thứ bảy, chủ nhật lê thê, căn gác hầm hơi không người, tôi quay cuồng chìm ngập trong buồn bã kinh hoảng. Tôi nằm co quắp như con sâu yếu ớt và thù hận sự nặng nề trống trải quanh mình. Dưới nhà trọ là quán phở, tiếng bát chén lanh canh cả buổi, mùi thịt bò gây gây tầm khắp gian nhà. Phòng bên, một gia đình tư chức lặng lẽ với một hạnh phúc lặt vặt thỉnh thoảng thoát thành tiếng cười của người vợ và đứa con gái nhỏ. Bến xe, máy nổ lui tới hòa với vòng động cơ ngoài ngã sáu. Chiều chiều tiếng còi tàu hú trong ga một lúc rồi tới tiếng trống và tiếng loa phóng thanh của rạp hát. Tôi sợ mọi tiếng động nhưng không chui trốn đâu được.

Nhưng từ ngày thứ hai, sự hiện diện của mấy đứa trọ chung phòng cũng làm tôi chịu không nồi. Tôi không thể kết bạn với chúng, tôi chiếm một góc cách biệt. Tôi không giống chúng, tôi khác, tôi khác hẳn và tôi đơn độc. Một mình tôi mọc trồi lên giữa một xã hội tôi thù nghịch không chấp nhận như một thân cây khô chưa ngã. Tôi phải làm gì? Tôi sẽ làm gì? Càng ngày tôi càng nhìn không ra tôi. Tôi lêu bêu trong cơn khủng hoảng như chiếc nút chai trong chậu dập dềnh theo bàn tay vầy nghịch của một đứa nhỏ. Cuộc khủng hoảng thét rồi trở thành thói tật của trí não, tôi thâu thập vào mình và bỏ mặc tôi giao động tự nhiên cùng các mùa tiết tuần hoàn trong thân.

 

Tại sao Diệp lại yêu tôi đến thế ? Tại sao em lại yêu anh? Tại sao ? Tôi lập đi lập lại câu hỏi với tôi và với Diệp.

– Có lẽ anh hơi khùng, nhưng em yêu anh. Em yêu anh và em cũng phát khùng theo...

Diệp cười nghiêm trang, trông nàng già dặn khác lạ. Diệp xuống Sài-gòn tìm tôi, nàng không biết nơi tôi trọ và tới đón trước cổng trường cả buổi chiều. Diệp đã loanh quanh trong các phố, tay cắp nón, mắt ngơ ngác, đợi giờ học, có lúc tưởng lạc lối không trở lại được chỗ cũ. Nàng đứng dưới gốc cây trên hè, nhìn con lộ rộng và thành lính bên đường, lảng vảng bên nàng một hai đứa con trai liếc ngó. Tôi tưởng Diệp có thể ôm choàng lấy tôi, khi tôi tiến gần tới. Diệp nhớ, Diệp trông đợi, lo âu, Diệp cần tôi, nàng không thể chịu nổi sự vắng mặt vô lý của tôi và bỏ học tìm. Anh muốn gì ? Tôi muốn gì ? Anh không còn yêu em ? Đó là một điệp khúc bất tận, anh yêu em, anh yêu em... Rồi còn gì nữa ? Những nhớ nhung khắc khoải Diệp không nghĩ rằng người ta có thể vượt qua, tình cảm là ngọn lửa mình nhóm lên và mình có thể dập tắt, mọi tình cảm đều là ý muốn không thành tựu, không dám hiện hình, ý muốn giả dối. Tôi nhớ và tôi quên như tôi có nhiều ý muốn.

Buổi tối, từ trong nhà hát ra, ông Pháp vẫn còn tức giận nguyền rủa tôi. Ông hỏi Diệp: “Thằng Trí nó làm cái gì đó, mày” ? Tôi trông thấy bộ mặt ông Pháp lúc bấy giờ, mắt long lanh dữ tợn trên khuôn mặt khô héo. Hiệp nói một câu bênh vực cho tôi, Thuận im. Lang nói: “Thằng Trí nó khùng bác à. Nó khùng từ hồi đó lận…” Diệp cũng nghĩ như thế. Diệp đã tâm sự về chuyện tình của chúng tôi với Thuận và có lẽ Hiệp cũng biết. Và Thuận nói đối với đàn ông, tình yêu không phải là tất cả đời của họ. Tôi nổi giận la: “Tại sao em lại mang chuyện ấy nói với người ngoài”. Diệp dịu dàng: “Em chỉ nói với chị Thuận”. “Không thể được, nói để làm gì ? Ích lợi gì ?” “Rồi trước sau mọi người cũng biết”. “Không ai biết, không ai được quyền biết”. “Em không hiểu anh. Anh không thích cho người khác biết”. Tôi chán nản không nói thêm, tình yêu của Diệp như trói siết tôi lại và nhiều lúc tôi không còn muốn vùng vẫy nữa. Tình yêu không phải như thế, em biết không ? Không phải như thế.

Chúng tôi ra bờ sông, nhìn buổi chiều rớt dần trên mặt nước, xem đám người xô chen xuống đò máy sang sông và những chiếc tàu lớn cất hàng bên nhà Rồng. Thần trí tôi vơi trống được một lúc, nhẹ tĩnh như niềm quên lãng lởn vởn. Sự hiện diện của Diệp kề sát thấp thoáng nhẹ nhõm như hơi gió thổi đều không dứt, có lẽ tình yêu rốt cuộc chỉ là sự hiện diện của kẻ khác mở rộng được sự hiện hữu của mình trong giây phút cảm ứng. Nhưng không lâu, Diệp không đề tôi yên, nàng bắt đầu kể, bắt đầu nói:

– Có người đi hỏi cưới em ? Anh tính sao ?

Tôi quay lại nhìn chăm chăm vào mặt Diệp:

– Ai ?

– Em không biết. Một người ở Sài-gòn.

– Em bằng lòng chưa ?

– Có lẽ ba má em bằng lòng.

– Vậy thì em bằng lòng chớ gì ?

Diệp nổi giận, nắm cánh tay tôi như muốn xô tôi té xuống sông. Tôi mỉm cười và cũng nói, tôi biết chắc cái tác dụng của ngôn ngữ xử dụng sẽ khuấy loãng mọi cảm xúc của mình cũng như người. Thứ tình của Diệp, của mọi người, buộc chặt vào ngôn ngữ như lối mòn giả dối dẫn đến chốn hư ngụy. Tôi nói tôi không muốn có gia đình, không muốn tạo những ràng buộc, không muốn nhập vào gia đình nề nếp của Diệp, không muốn làm một viên gạch trong gian nhà trang nghiêm chất nặng quá khứ, chắc chắn ba má Diệp không ưa nổi tôi. Diệp nói Diệp chỉ có thể sống với tôi, người ta cần kẻ khác, cần gia đình, cần ràng buộc, cần hy sinh cho người mình yêu; ba má Diệp cưng chiều Diệp, sẽ chấp thuận, miễn là tôi chịu nghe lời nàng, chiều nàng một lần mà thôi...

– Không, không khi nào anh đặt chân đến nhà em...

– Tại sao ? Anh không yêu em. Anh không biết là em không thể sống không có anh. Anh muốn em thuộc về người khác...

Tất cả em từ bao giờ cho đến bây giờ và mãi mãi vẫn thuộc về người khác, anh cũng vậy. Chúng ta không thuộc về nhau. Em không hiểu, không bao giờ chịu hiểu. Một người là của nhiều người, không là vật sở hữu, cũng không thể cung hiến làm vật sở hữu của một người. Trừ phi anh chết, em chết, trừ phi anh được giết em. Và trong cái chết... Tôi nhìn hoàng hôn phía cuối sông, những ý nghĩ trôi nổi lềnh bềnh, buồn thảm, chậm chạp.

– Có lẽ em nên lấy chồng. Tốt cho em.

– Em sẽ lấy chồng cho anh coi. Đề em lấy chồng anh coi.

Diệp lặp đi lặp lại, lần này không đùa rỡn, và buông cánh tay tôi, bàn tay thong thả nắm chặt lấy chiếc khăn cuốn vòng quanh. Môi Diệp bặm lại, mắt vẫn đục đắm chìm: Em không chịu thua anh đâu. Tôi cười vỗ về: Không phải, không phải thế. Một lát Diệp lại quay về với mối tình của nàng, thủ thỉ thuyết phục tôi. Nàng hy vọng tôi nghe lời nàng, rồi rốt cuộc tình yêu vẫn chỉ là của hai đứa, mọi người mọi sự đều phụ thuộc, nàng sẽ cố gắng thi đỗ, theo học Sư Phạm, ra trường xin đồi lên Cao nguyên. Chúng tôi sẽ sống ở đó, cách biệt mọi người thân, chúng tôi sẽ có con, ngồi bên lò sưởi ấm, đi trên những ngọn đồi, nghe thông reo buồn dưới lũng; căn nhà cheo leo toàn bằng gỗ như gian nhà Diệp chỉ cho tôi bên đường phố bóng cây cao đang lẫn vào màu trời nhập nhoạng, “anh tha hồ đọc sách, mơ mộng”. “Anh chơi với con trong khi em đi dạy học”; con đường phố thoảng hương ngọc lan khi tôi cất tiếng cười.

– Còn anh ? Anh làm gì mới được chớ ?

Diệp vẫn mơ mộng, nàng tiếp tục vẽ cho tôi thấy cuộc tương lai trong một thế giới bất động. Trên hè phố bắt đầu loang lổ ánh điện tôi nghe lạnh lẽo cô đơn hết sức, tôi sẽ làm gì. Có lẽ rồi tôi sẽ đi tới, không hay biết, nơi Diệp và mọi người đã chỉ cho tôi thấy chăng ? Tôi đang đi bên cạnh Diệp và tôi vẫn luôn nhớ tôi đã nhìn thấy nàng như con gái lạ mặt bên kia hàng chấn song nhà tù, nàng phấp phới quanh quất nhưng không ở cùng chỗ với tôi. Chỗ của tôi ở đâu ? Diệp bỗng hốt hoảng sực nhớ trời đã tối, phải về tỉnh. Diệp lo sợ vì sự táo tợn của mình, khiếp hãi nghĩ nàng có thể không bao giờ về tới nhà cha mẹ. Em phải về một mình, đoạn đường dài mịt mùng bóng tối, anh thấy chưa, em yêu anh đến ngần nào. Em phải về và anh phải tới đó. Em chỉ cần bước vào ngưỡng cửa, cái không khí thân quen với ánh đèn ẩm, đồ vật cũ kỹ, những người trong gia đình, những lời tra hỏi cật vấn đã vây bọc lấy em và em yên ổn, yên ổn hoàn toàn. Tôi nói như đùa:

– Hay em ở lại đây. Đừng về nữa.

Diệp trợn trừng ngạc nhiên. Thấy không, em phải về, em còn là của người khác nữa, trước sau em cũng phải trở lại chốn anh không thể đặt chân tới. Diệp mỉm cười an ủi, nàng ngồi trong xe lẫn giữa những người lạ, ngó ra ngoài:

– Cuối tuần anh về hả ?

Tôi gật đầu, nhưng tôi nghĩ: tôi không về, tôi đi lại giữa những nơi chốn không còn dính líu tới mình.

 

“Em đã mất cái nhìn về toàn thể lịch sử em chỉ còn thấy được sự kiện hỗn độn. Tư tưởng của em phản ảnh cái thực tại bế tắc trầm trọng của xã hội này... Em bị đầu độc bởi mớ trí thức phản động…”  ông Hoanh nói, ông vẫn coi tôi như đứa học trò cũ từ năm lớp nhất ông đã mở óc, kết nạp, hướng dẫn hoạt động mấy năm trước. Ông không chú ý đến tôi đã lớn, đã thay đổi và những phân tích, giải thích, suy luận của ông không còn thỏa mãn được tôi như ngày nào; sở dĩ lâu lâu tôi vẫn lui tới thăm ông, ngồi im lặng nghe ông dạy dỗ, nhận sách báo tài liệu ông chuyền cho đọc là so chừng cái mức độ rã rời của một lý tưởng ở nơi tôi (Lý tưởng trở thành huyễn tượng và con người bị nhấc bổng treo giữa hư vô). Tôi ngồi trong gian nhà gạch vùng quê, giống như gian nhà của gia đình tôi, nhưng ngăn nắp sáng sủa nhiều sinh khí hơn.

Ông Hoanh dạy trường tiểu học tại tỉnh từ nhiều năm, sống cách xa nơi làm việc mười cây số; buổi chiều ông trở về bằng xe đò hay xe Lambretta lôi. Vợ ông lãnh trông nom mẫu vườn trái cây của một gia đình giàu có ở Sài-gòn, nhà ở không mất tiền, sanh được bốn người con và còn nuôi thêm đứa con nuôi, con của một nữ đồng chí của ông Hoanh đã chết trong nhà giam của quân đội Pháp; vợ ông là người nhà quê thuần túy không biết chính trị và cũng không hề để ý đến hoạt động của chồng, chỉ lo chăm sóc con cái, vườn cây, bầy heo và bầy gà. Ông Hoanh thường nhật có dáng dấp bậc mô phạm hiền lành, kiều mẫu, một ông giáo làng già mãi không hết tuổi, an phận kín đáo. Những khi ngồi họp với chúng tôi, bọn học sinh mới lớn, ông linh động hơn, hăng hái hơn nhưng vẫn không rũ hết vẻ lừ nhừ cố hữu.

 

Ông đứng dậy sỏ chân vào dép, đi tới tủ gỗ, mở tìm mấy cuốn sách đã cũ vàng, trao cho tôi: “Thày khuyên em nên đọc kỹ mấy cuốn sách này”. Tôi không muốn nói với ông là trong mấy năm tôi đã đọc khá nhiều sách loại này, tôi đã đọc như kẻ đói khát, như kẻ tội lỗi, như kẻ chết đuối, tôi đã đọc như tôi muốn được sống và được chết (và tôi không sống cũng không chết) “Em phải làm việc lại. Chỉ có công tác thực tế mới làm cho em thấy hữu ích, em mới có nhãn quan đúng về lịch sử... Còn những cái này em phải hiểu... Cách mạng có những lúc thoái trào, lực lượng phản động…” Ông chỉ tay xuống bức hình lớn chụp đám thanh niên nam nữ Hung-gia-lợi cặp tay nhau trên đường phố, sau lưng là một ngọn cờ, trong dáng điệu tươi cười hớn hở của những kẻ bước tới chốn hẹn hò của lịch sử, trên một tạp chí ngoại quốc. Tôi ngó theo, nhớ tới những tấm hình gấp ở trong và nhủ: Tôi không có đồng bạn.

Tôi đã tiếp xúc với những đứa cùng lứa tuổi tại trường Đại học, tôi cố gắng muốn gia nhập trở lại nỗi mê say cũ mà không được. Bọn sinh viên di cư, tuy không còn quá khích như năm mới vào, chịu ép mình trong chế độ mới nhưng vẫn giữ thái độ tinh thần quyết liệt của những kẻ mất quê hương đối với chủ nghĩa. Đám sinh viên ông Hoanh giới thiệu tôi đến chỉ là bọn tư sản đang tự sát. Tôi đã tới dự buổi họp của bọn sau này bàn định chống lại việc thống nhất Tổng Hội Sinh Viên do bọn di cư đề xướng được ngụy trang thành một buổi tiếp tân tại biệt thự của một viên cựu bộ trưởng Canh nông. Âm nhạc nổi, gian phòng trần thiết lối Tây-phương các cửa lớn mở ra vườn đón ánh sáng buổi chiều mùa hè, bọn con trai con gái đi lại tụ tập cười đùa trò chuyện líu lo bằng tiếng Pháp. Đứa con gái chủ nhân sửa soạn đi Pháp học thuốc, bal cuối năm sắp mở của tụi Médecine, tinh thần của bọn Yankee không hợp với esprit européen, nhạc Jazz của bọn nègre (câu chuyện hào hứng khi một giọng đầm kêu trồi lên: Blues ảo não chưa.) Mỗi thống khổ của bọn đen tại Mỹ-quốc... Tôi ngồi chết cứng một đầu ghế dài, trên tay ly nước cam, không biết mình sẽ hội họp với những ai sau buổi tiệc vui này. Đứa đưa tôi tới đứng giữa một bầy con gái đang khoa môi múa mép về vấn đề chia rẽ chủng tộc tại Hoa-kỳ. Tiếng vỗ tay lốp đốp khi từ ngoài sân bước lên thềm hai ba nhân vật đứng tuổi, trong số có một nữ bác sĩ có chân trong phong trào vận động hoà bình. Phòng khách mỗi lúc thêm huyên náo, tôi có cảm tưởng mọi người có thể nói tào lao cho tới khuya và riêng tôi, tôi không hiểu tôi phải nói với ai, ngồi trên ghế ngó người qua lại đụng vào mình, đợi chờ gì. Tôi tự nhủ: tụi bay đang tự đào huyệt chôn tụi bay đó. Một bọn đứng kế, án hết tầm mắt, thảo luận về hoà bình xã hội, một xã hội không giai cấp: tôi phải ngó phía trước mặt, nhìn bức tượng đồng đen nhỏ đặt trên nắp đàn dương cầm đề khỏi nghe những tiếng làm xàm chọc lỗ nhĩ. Tôi bỏ về ngang, không đợi phần thứ hai của buổi họp mặt, và nói với ông Hoanh tôi không thể nào tiếp xúc với bọn trưởng giả đớn hèn chỉ làm mình khinh bỉ, chúng nói chuyện cách mạng như sức dầu thơm đi dự dạ hội. Ông Hoanh bảo: “Em chưa hiểu rõ thế nào là tranh đấu... Họ không phải là người làm cách mạng, trong cuộc cách mạng xã hội sắp tới, tất nhiên không thể có họ, nhưng trong lúc này họ có ích cho chúng ta. Em phải sáng suốt mới được”. Tôi muốn hỏi ông trong cuộc cách mạng sẽ tới đây có ông và tôi không, nhưng tôi biết ông không sao trả lời được.

Ra khỏi biệt thự, tôi bước vào con đường dài thẳng tới phi trường hai bên cây trồng kết thành vòm hiu quạnh trong buổi chiều nhá nhem. Tôi nghĩ đến đời sống chật hẹp ràng buộc, từ nhỏ tới giờ chưa vượt quá con đường dài ba mươi cây số từ tỉnh lên Sài-gòn, và tôi chỉ biết mơ mộng cùng chiều sâu thẳm của các ý tưởng. Tôi như sực tỉnh về thân phận mình hơn, một đứa nhà quê muốn thoát tới chân trời viễn vọng, nhưng đó lại là sự sực tỉnh muộn màng ủ ê vì bị nhốt kín trong gian hầm tối tăm của một trí tuệ ly thân.

 

Tôi biết gì về lịch sử? Lịch sử như sự cuốn hút của một trí tuệ rộng lớn bao trùm ở ngoài mình, một trí tuệ khác vùi dập mình cũng như cõi chết và cơn điên chăng? Thực tế hỗn độn xô đẩy truồi mau trong ngày tháng, tôi muốn vượt khỏi, muốn nhìn suốt bằng trí tuệ của tôi (của người khác ?), trí tuệ này cũng là lịch sử và tôi, tôi vẫn phiêu lưu bên ngoài dòng. Thật thế chăng ?

Tôi lớn lên trong vùng quê, trong tỉnh lỵ bé nhỏ, không thay đổi. Lịch sử ở những nơi khác, xảy lúc nào không hay, truyền bằng cáo thị, bằng loa phóng thanh, bằng các cuộc mít-tinh hoan hô đả đảo và đời sống nhộn nhịp náo động đôi hồi, nhưng cũng như dòng sông chảy ngang châu thành, rồi trở lại bình thường mòn mỏi. Người ta chết, người ta khóc, người ta đau đớn, người ta quên, người ta sống... Sống trong lịch sử. Tôi nào thấy gì ? Chỉ thấy lịch sử của những đời người vô vị nhạt nhẽo trong khung cảnh bầy xếp trơ trơ của sự vật.

Mỗi lần đặt chân xuống bến xe đầu chợ, tôi đều rớt trong khoảnh khắc mù lòa của màu nắng chiếu bình thản trên các mái ngói, mặt phố hay của màn mưa lênh đênh thôi giạt trên mặt đường hẹp ngắn kéo dài xa tắp, nghe âm vang của từng biến động nơi các vùng không tới, trong những ngày đã qua và những ngày sẽ tới, tắt lịm vào trong bộ mặt quen thuộc cứng nhắc của châu thành, Tôi, nhìn tấm bảng cũ xiêu vẹo trước phòng thông tin, ngày nhỏ tôi đã đứng đọc bản tuyên cáo không hiểu hết nghĩa, chạy băng trên đường về nhà, la lớn từ ngoài ngõ như vừa bắt gặp một kho tàng chính mình không rõ giá trị : “Nước mình độc lập. Độc lập rồi.”; tấm bảng ấy và chiếc loa phóng thanh vẫn mang lịch sử đến với châu thành nhưng tôi thôi không la hét nữa.

Làm thế nào tôi nhìn được lịch sử khi tôi chỉ nhận được những dư âm trong một thế giới chật chội vây kín ? Tôi muốn vượt, tôi muốn tới, tôi cố gắng và tôi tuyệt vọng. Không ai trợ giúp được tôi, ông Hoanh cũng như Hiệp. Ông Hoanh không chấp nhận cho tôi nhìn vượt khỏi tầm mắt của ông. Còn Hiệp bỏ mặc, Hiệp lần trốn sau thái độ gần gũi dửng dưng không chia sẻ, cũng không từ chối. Anh thấy những gì? Tôi không thể nào hiểu.

Tôi gần Hiệp, tôi chẳng rõ thêm điều gì về anh. Trong lúc chuyện trò tôi được nói về tôi, về những khát vọng, thắc mắc, băn khoăn, những dày vò cô đơn từ bấy lâu; Hiệp nghe chăm chú. Tôi nghĩ anh có những giải đáp cho riêng anh mà anh không muốn tiết lộ. Có phải anh nhận thấy với tôi không thể có lời giải đáp nào thoả mãn nồi ? Tôi bị đày đọa trong nhà ngục do chính mình dựng lên và chỉ tự mình mới giải thoát được cho mình ? Có lúc tôi cho rằng Hiệp chỉ coi tôi như một thanh niên tỉnh lỵ vừa lớn, loá mắt vì hào nhoáng của chủ nghĩa, ôm những mộng ước ngông cuồng, tuổi tác sẽ làm cho tiêu mòn mất tích; tôi bực bội vì bị xem thường quá đáng. Hiệp xuất hiện trong hiện tại lặng lẽ phô diễn như không che giấu một ý nghĩa nào hoặc có quá nhiều ý nghĩa; bất chợt vài lúc lãng đãng thụt sâu trong màn khói của một dĩ vãng riêng biệt: vùng quê miền Bắc mang những tên thơ mộng cổ kính, những bầu trời hắt hiu của tuổi thanh niên lãng mạn, màu ánh sáng rực rỡ của những ngày cách mạng, những ngày đầu kháng chiến, một vài kỷ niệm tầm thường của chốn quê hương đã bỏ với bè bạn, kẻ thân thuộc… Một lần Hiệp nhắc đến một người bạn-Kim-như kẻ chưa giác ngộ thân phận, say mê hoạt động chính trị, đến chót đời cũng không thể làm việc gì khác hơn. Kim hiện không rõ ở đâu, nằm trong tù hay trốn khỏi nước hay đã bị thủ tiêu ? Sự huyền hoặc của một kiếp sống độc đáo đã cuốn Kim vào hư vô bất tận, Hiệp nói như thế; cả một kiếp sống may mắn người ta chỉ trùng phùng với lịch sử, hiện hữu tới tột cùng, một lần duy nhất, qua khỏi dịp là trở lại nguyên vị trong đời hằng ngày (tầm thường, làm nhàm lê lết như con cuốn chiếu), cứ thúc áp bắt mình vượt khỏi thân phận chỉ là tự vẫn, những khoảng trống rỗng của giờ phút trôi qua là đời sống đích thực người ta thường bỏ chạy. Tôi cật vẫn lần ấy đã đến với anh chưa, anh đã sống thực lúc nào trong sự hoà nhập với mọi người và mọi vật. Hiệp không trả lời.

(Có lẽ không ai trả lời được. Đó là kinh nghiệm kín. Hoặc người ta ở lại nơi chốn tìm thấy - những giây phút vĩnh viễn hoá như cõi chết – bằng hành động dệt những dây trói ràng; hoặc, như lưu Nguyễn đã về trần chẳng còn dịp may trở lại, cách biệt ngơ ngác và xa lạ với cả cõi tiên lẫn cõi tục).

Hiệp quay lưng, tựa tay lên mặt quầy, gần bên bình lay-ơn; sau bình bông, người đàn bà ngồi thẳng, cổ dài như muốn vươn cao thêm như con hươu sao ngếch mõm ; dường như Hiệp nói câu gì duyên dáng và người đàn bà cười ngất, đầu tóc nghiêng ngả. Tôi đứng bên góc đường, sau lưng là phố tối âm u, nhìn qua quán rượu chiếm góc đường đối diện, mở vòng hai mặt phố. Trước quán là vườn bông với đường chạy vòng, những nhánh phố thông sang con phố Tây sang trọng, nhập vào đường bờ sông lớn chạy từ xưởng Ba-son xuống cột cờ Thủ-ngữ ; ngồi trong quán những buổi sáng mệt mỏi êm tĩnh nhìn thấy chiến hạm nằm nghỉ, bến đò sang Thủ thiêm, mặt tường của hãng Caric. Trong ánh hồng nhạt của nê-ông, người đàn bà và Hiệp cử động như một khúc phim câm, không người thứ ba trong quán. Tôi tò mò theo dõi, nghĩ : Hiệp không về nhà tối nay. Một lúc người đàn bà vào trong, Hiệp khất khưởng rời quầy, tới ngồi vào ghế bên cạnh một chiếc tủ đứng thấp bọc kính dầy thắp đèn sáng bên trong - chiếc máy hát tự động mỗi lần bỏ xu vào. Người đàn bà trở ra, Hiệp lại đưa tay nói tiếp nhưng không rời chỗ, câu chuyên có vẻ tương đắc; đến phiên người đàn bà áp má xuống mặt quầy, nhoài thõng bàn tay ra phía ngoài và Hiệp tiến đến, ghé lên chiếc ghế cao cũng cúi mặt xuống, nhìn xa trông dáng điệu như Hiệp đang ôm người đàn bà có lẽ Hiệp nói nhỏ điều gì đó vào tai, người đàn bà cười rúc lên bật ngửa người lại sau, còn Hiệp cũng ôm bụng nghiêng ngửa: Tôi nghĩ giá Diệp được chứng kiến ông thày của nàng trong cảnh này.

Tôi băng ngang đường, kiếm chỗ ngồi đụt mưa trong đám bàn ghế mây kê ngoài hè quán rượu sát chân tường dưới mái hiên khuất, nghe rõ câu chuyện trong quán, Người đàn bà và Hiệp đang nói về một người thứ ba: Kim. Người đàn bà chắc là tình nhân cũ của Kim, đang kể những tật xấu của bạn cho Hiệp cười, tiếng nói yếu hơi thoát thành những âm chuốt nhỏ sắc; Hiệp coi bộ muốn say, cười ngả ngớn khoái trá, gọi người đàn bà bằng cô, dưới ánh đèn mặt hai người xanh xao bệnh hoạn. Tôi ngồi đến năm phút người đàn bà mới thấy, bước ra chào. Trong quán, âm nhạc đột nhiên vọng lên kéo theo một khúc hát thầm thì kề lề : Xưa có một mối tình lớn tưởng bền thiên thu. Xưa có bầu trời xanh...; Hiệp ra cửa quán, ngó mông sang phía sông tối mù vì màn mưa nhỏ nhưng dầy; khi người đàn bà đi ngang chỗ Hiệp đứng họ cười với nhau. Tôi nhìn đốm lửa thuốc trên môi Hiệp lập lòe và bỗng dưng nghe mình cô đơn gần gũi với Hiệp lạ lùng; tôi muốn tiến nói với Hiệp nhưng không biết phải mở đầu câu chuyện như thế nào.

Tôi giật mình khi Hiệp kéo ghế bên cạnh nở nụ cười, Anh đã ngà say, cử động khoan thai và thoải mái, anh ngồi im một lúc không nói hay anh đã nói một câu trước đó nữa mà vì mưa tôi không nghe nên anh im. Anh bập bập từng hơi thuốc dài, điếu thuốc lòe sáng cháy sèo vì những bụi nước tạt. Chúng tôi cùng im lặng nhưng không ai thấy khó chịu. Tôi nhìn ánh điện hoen mờ trên bờ sông, nghe dào dạt tiếng mưa trên mặt nước. Rồi người đàn bà cũng ra ngồi chung, bỏ mặc cái quán trống vắng trong ánh đèn màu và những đĩa nhạc quay không. Một lúc nhạc tắt, tôi còn nghe mang máng bên tai lời ca ảm đạm tê tái (một thành phố cao, chán chường trong khuya): nhìn ra cửa sổ, hút điếu thuốc nhạt nhẽo này của tôi... điếu thuốc nhạt nhẽo của tôi. Người đàn bà chia tay hứng những giọt nước nhỏ đều đặn rớt vào lòng bàn tay lơ đãng.

Tôi tưởng tượng Thuận dong đèn chờ Hiệp trong gian nhà ẩm ướt giữa con phố hiu hắt đen đặc những bóng tối đe doạ, con phố bị nhấn chìm vào trận mưa lướt thướt như một mạch nhỏ đứt lìa, rùng mình nghĩ đến những xác chết đã nằm sóng sượt ở nơi này theo lời Diệp kể, nàng không tắt đèn thiếp đi trong giấc chập chờn lo âu; vào lúc gần sáng trời mưa lớn tứ bề, chợt choàng thức, chính lúc đó Thuận tưởng mình đã nằm trong cái chết, Hiệp không ở gần; có lẽ từ đêm ấy âm thầm Thuận mặc cho cái chết quấn phủ như tấm chăn nhàu nát mà tay chân nàng bám víu tuyệt vọng, đêm sau tháng mười chỉ là lần lập lại thông thuộc thêm tiếng mưa lay chuyển dữ dội hơn các cửa ngõ và tiếng kêu gọi hốt hoảng của đứa con trai lạ mặt. Chị Thuận, chị Thuận...

Hiệp nghiêng mặt về phía sông, ánh sáng mập mờ trôi giạt theo những trận nước đổi chiều, hút thuốc lá luôn miệng, người đàn bà nhìn vào con phố lớn sau lưng tôi lâu lâu vẫn vọng tiếng nước hắt mạnh do những chiếc xe chạy nhanh, hat nho nhỏ trong miệng, môi không mấp máy. Những cử động, lời nói bâng quơ nhoà lẫn không kịp ghi nghe. Khi mưa tạnh, đột nhiên thành phố khuya vắng lúc nào, Hiệp đang nói lẫn với điệu nhạc dồn dập thoát từ tiệm khiêu vũ gần bên. Hiệp nói những gì ? những thứ tình kỳ quặc nối kết bọn đàn ông với nhau, đàn bà không hiểu, cũng những chia rẽ kình địch bắt buộc chúng phải chú ý tới nhau, yêu nhau theo lối thù nghịch; như tôi với Kim, Hiệp nói, người đàn bà giễu : đàn bà sẽ thủ tiêu hết mấy thứ đó – chưa chắc, chưa chắc... Tôi đứng lên hỏi : “Anh không về ?” “Về đâu? Tôi về đâu mới được ? Cô Phương nghĩ xem”. Người đàn bà ngửa cổ cười : “Nhất định là không thể về nhà em rồi”. Hiệp không chú ý đến vẻ giễu cợt của người đàn bà, anh không rời thế ngồi, đưa tay cho tôi nắm, bàn tay sấp mồ hôi nhão nhoét như một chiếc lá mềm bị vò nát ; người đàn bà hỏi : “Anh về sao ?”, quay lưng bước đi tôi nghe bị xúc động vì câu hỏi bâng quơ, câu hỏi đối với tôi như mời mọc níu kéo vào một thế giới có những kẻ nhìn tôi khác lạ.

 

Tôi trở lại quán những buổi sáng trống rỗng, thường từ sớm khi quán vừa mở cửa chưa ai ngồi sau quầy; một người đàn ông lau chùi xếp đặt lại bàn ghế, quét bụi trên mặt quầy, các kệ đóng trên tường, các chai rượu bầy, cắm sẵn điện vào các bàn trò chơi lạ mắt mới nhập cảng, đón xe của hãng nước đá khuân vào trong những két la-de nước ngọt, những thỏi đá tảng trắng trong. Từ trong góc quán, nhìn qua những khe lưới sắc uốn lượn, buổi sáng cháy dần trong ánh nắng hắt từ mặt sông, bôi trắng những thân tàu, lỗ đỗ trên mặt đường phố và công viên vắng vẻ. Một lát sau Phương đến trên một chiếc xích lô quen, ngửa cổ nói với người phu trước khi bước xuống đi thong thả nhìn bâng quơ về hai bên đầu phố, bước vào chỗ ngồi sau bình hoa tươi mới; người đàn bà ấy ban ngày xanh xao mệt mỏi hơn, bóng đêm in hằn thành quầng mắt, trải trên màu da và cặp mắt sâu, nụ cười thờ ơ xa cách. Phương ngồi vào chỗ, người đàn ông vào làm việc sau bếp; khách bắt đầu đến dần, thường là bọn thanh niên dư giả giết thời giờ bằng những trò chơi cơ khí — họp với nhau thành từng nhóm, đi ra đi vô, ngồi ở các bàn, vây quanh các bàn giải trí, có những người nửa chừng bỏ ra phố một lúc rồi quay trở lại, nhiều lần trong một buổi, không nghĩ ngợi, thành thuộc mọi cử chỉ, thái độ, lời nói phát biểu — dân áp phe chuyên nghiệp có hẹn hò công việc ghé qua hay ngồi nói tầm phào với Phương đôi ba câu chuyện vui đùa, một vài bộ mặt lầm lì khó hiểu không rõ nghề nghiệp. Phụ Phương có hai ba cô hầu bàn thơ thẩn quanh nàng, quán nằm trong phố ít người qua lại nên hiếm lắm mới có những người khách lạ phải tiếp đón.

Tôi có lẽ cũng là một người khách lạ, Phương không nhìn nhớ ra tôi. Tôi ngồi yên một chỗ, ngắm bọn thanh niên vô tư nô đùa với các trò chơi, những trò chơi tôi không hiểu một thứ gì. Tôi tự hỏi phải chăng tôi chỉ có những ý tưởng, một thân xác, những người thân, yêu và chỉ biết quay lộn với những món ấy như vật sở hữu nghèo nàn? Đó không phải là trò chơi, tôi sống với những ý tưởng có trong đầu, vượt ngoài giới hạn của thân xác, sống những mối quan hệ khác những mối hiện hữu cùng người thân. Tôi không biết nô rỡn, tôi cũng không thích, nhưng tôi vẫn thấy dường như tôi đang làm trò múa rối cho mình nhìn ngắm mình. Có lúc tôi chìm vào trong những đám mộng trắng, bỏ quên mình thoải mái và khi bị đánh thức dậy vì không khí chợt huyên náo của quán, tôi nghĩ có thể nào trở nên vô tình với kẻ thân thuộc và với chính mình – kẻ thân thuộc nhất.

Một buổi sáng, vào lúc vắng khách, chỉ có người lính thủy trẻ mơ mộng bên cốc la-de ở bàn giữa, Phương đột nhiên bỏ chỗ xuống bàn tôi. “Phải anh cười từ mấy hôm nay, em đã nhớ ra anh ngay” Phương xưng em ngọt ngào với tôi, như với mọi người, “Anh Hiệp đi đâu biến mất.” Tôi ngượng ngùng bối rối không tìm ra câu đối đáp, im như khúc gỗ cứng — người đàn bà kéo ghế ngồi trước mặt, hỏi thăm Hiệp, tôi có gặp Hiệp luôn không, nàng muốn được gặp Hiệp. Tôi trả lời lấp lửng, trốn chạy cặp mắt soi mói, không tiết lộ tung tích của Hiệp. Phương phải trở về quầy tiếp một người khách quen và khi xuống lần thứ hai, nàng cởi mở tâm sự một cách bất ngờ dễ dàng. Câu chuyện kể kiểu cách thản nhiên như chẳng dính dấp gì đến nàng.

Hiệp muốn nhận nuôi đứa con của nàng và Kim, “anh có biết anh Kim không?”, tôi không kịp nghĩ gật đầu nhận nói dựa theo lời Hiệp kể, “Có lẽ anh ấy đã chết?”, Phương trố mắt, lúc lắc mái tóc, “Không biết. Anh ấy có chết cũng không ai thương tiếc”, tôi táo bạo hỏi: “Cả Phương nữa?” “Chứ sao?” Phương cười, đưa mắt chào mấy người thanh niên vừa bước vào. Tôi có cảm tưởng như Phương đang đùa cợt về một người không đáng quan tâm. Hồi xưa, Hiệp cũng yêu thương nhưng không nói và Phương đã chọn Kim, “Hồi đó em mới lớn, chưa hiểu gì. Bây giờ thì tiếc. Giá em yêu anh Hiệp, có lẽ em không khổ”. Người đàn bà cười, thân thu nhỏ lại, hai tay kẹp vào đùi. Tôi muốn nói: chưa chắc đâu, Hiệp có thể cũng như Kim (Kim như thế nào?) nhưng để yên cho Phương cười. Người đàn bà thoát hiện trong phút chốc như một phô bày toàn thể không còn một chứa đựng ẩn giấu nào, nỗi trống không kỳ quặc như một cám dỗ vu vơ. Tôi nhớ câu nói của Thuận với Diệp : người đàn ông tìm kiếm một điều gì khác qua tình yêu, vượt ngoài tình yêu và người đàn bà phải cố hiểu. Tôi nghĩ Hiệp tìm đến Phương như muốn bắt lại mối liên lạc với Kim, Kim còn sống đâu đó; và có lẽ Kim cũng chỉ là bóng dáng có thể của Hiệp, bóng dáng đã mất hay muốn nhập hiện?

Tôi chuyển tin của Phương đến Hiệp. Hiệp tươi cười: “Ờ, tôi sẽ xuống ngay chiều nay.” Tôi chăm chú quan sát Hiệp, hi vọng bắt gặp ở anh những dấu hiệu của một mặc cảm tội lỗi nhưng tôi thất vọng. Anh đứng ngoài đầu thềm nhà ông Pháp, trong giờ chơi, hút thuốc chuyện trò với tôi, học sinh qua lại bên hành lang trước các lớp học và dưới sân, Diệp ngồi trong lớp vắng cúi đầu trên tập vở thỉnh thoảng liếc nhìn chúng tôi. Hiệp chẳng những không hỏi thăm điều gì về Phương cũng không giải thích với tôi về lời nhắn gọi thỉnh thoảng còn nhìn Diệp và tôi cười. Chuông reo, Hiệp bắt tay tôi hỏi : “Chiều cậu có trở xuống Sài-gòn không?” tôi đáp không, và Hiệp ôm tập sách vào lớp Diệp; ngang qua chỗ Diệp, Hiệp dừng lại trong nửa giây, nghiêng đầu nói một điều gì, Diệp đứng thẳng suôi hai tay lễ phép. Tôi đã hỏi Diệp lúc ấy Hiệp nói gì với nàng, Diệp không nhớ, nàng cũng không nhớ cả việc Hiệp có dừng lại nói với nàng trong buổi học ấy. Tôi nhất định gợi lại trí nhớ cho Diệp, nhắc từng chi tiết nhỏ nhặt: ánh nắng nhạt đậu trên mái tóc nàng mà sau đó nàng đã phải khép bớt một cánh cửa lớn, chiếc áo bà ba trắng tay rộng nàng mặc, khi nói với nàng trên môi Hiệp còn ngậm điếu thuốc cháy dở. Diệp đáp: “Hay là lúc ấy ông ấy hỏi đứa đứng cạnh em ?” “Không có ai đứng cạnh em lúc đó hết”. Tôi nhớ rõ Diệp đứng một mình, hai người bạn cùng bàn Diệp sau khi Hiệp đã đi khỏi mới xô nhau chạy Vào lớp, khép nép lúng túng. “Em nhớ không có nói gì cả. Nói em phải nhớ chứ.” Diệp ngẫm nghĩ một lát, đột nhiên trông thẳng vào mắt tôi hỏi: “Anh ghen hả? Anh nghĩ tầm bậy quá.” Bỗng dưng tôi hoang mang, tôi ghen ư? Tôi ghen với Hiệp? Tôi không nghĩ như thế, nhưng người khác nhìn thấy như thế đó ư? Tôi tức giận nghẹn cả lời. Thái độ của Diệp như khiêu khích, tôi nói: “Anh muốn biết thế thôi, em không nói là quyền của em. Anh đã chẳng nói từ lâu là em yêu ông thày của em mà em không hay đó sao. Anh không ghen mà.” Chạm tự ái, Diệp không chịu thua, nàng đỏ mặt cãi tới cùng, nàng nhắc lại từ đầu đến cuối cuộc tình của chúng tôi, những nhẫn nhịn hi sinh của nàng, nàng không hiểu tôi muốn gì, tôi có yêu nàng không; nàng nhắc câu chuyện cưới hỏi của nàng và hỏi quyết định của tôi “Có thật anh coi rẻ em không?” Chúng tôi ngồi trên đường xe lửa nhìn ra cánh đồng, sau lưng con đường đất rộng chạy giữa những vườn cây trái sầm uất, con đường này nối với quốc lộ bằng cây cầu sắt ngắn bắc ngang con lạch chảy men theo các vườn mía. Trời chiều mở rộng, nhẹ dần, trong vườn um tùm đầu xa tiếng đàn bà réo gọi và tiếng máy Vespa nổ len lỏi giữa các hàng cây. Tôi nhặt những viên đá trên đường tàu chọi vu vơ, ngăn cản sự bực dọc chán nản, nén chặt những bồng bột xô đầy của những ý tưởng không chịu hiện hình. Rời chỗ ngồi đứng lên. Diệp lầm lũi đi trước không thèm ngoảnh nhìn tôi; chúng tôi phải vượt hơn cây số mới về đến châu thành. Tôi dẫm trên bước của Diệp, trên bờ cỏ ven quốc lộ; tôi tưởng chúng tôi như hai người bộ hành mệt mỏi thù hận nhau. Cuối cùng tôi ngồi xuống vệ cỏ trước con đường mòn len giữa hai ruộng mía bỏ Diệp đi tới một mình. Tôi ngồi đó như một con chó hoang vô chủ.

 

 

Tiếng máy may đạp nhịp nhàng, vòng bánh nhỏ quay trắng mải miết; chốc chốc bàn tay mỏng xanh níu lấy vòng quay giữ im, mái đầu nghiêng củi cắn đứt mối chỉ. Trong im lặng của gian nhà, chiếc lưng thẳng đứng như không biết mỏi, đẩy đưa giữa tiếng động của máy may và sự trống vắng hoàn toàn của ánh mặt trời từ bụi chuối bên kia đường đổ tuôn khắp mặt đường chiếu xuyên vào nhà trên nền những tiếng động khác của thành phố, những câu nói trao đổi như những sự vật thừa thãi không chỗ đặt, gượng gạo nhạt nhẽo. Cơn mưa nghe xa ở chân trời, chiều hay đêm mới chuyển tới vây ép sự im lặng mỗi lúc một ngột ngạt, phát hiện nỗi trống không nặng nhọc của tâm thần. Thuận vừa làm việc, vừa hỏi chuyện, tôi đáp như cái máy: nhiều lần tôi bị bỏ giữa các đồ vật với nỗi ước muốn thầm lặng. Tôi muốn đi tới sau lưng Thuận, cúi xuống trên mái tóc chị, nói với chị.. tới đó ý nghĩ tôi hỗn độn, bất lực không vận chuyển nữa. Khoảng cách ngắn ngủi gồm bảy viên gạch không vượt nổi chỉ có thể nhìn ngó. Thuận dường như cảm nhận được cái không khí đe dọa của một hành động táo tợn có thể xảy tới, chị chăm chú vào công việc không quay lại. Một lúc tôi tự xóa bỏ tư tưởng để chỉ còn là mắt nhìn, phủ trên sự vật trong sự xuất hiện đầu tiên thô sơ, chỉ còn là những hình thể gồ ghề, góc cạnh, lượn lờ, không mang ý nghĩa nào. Trong trạng thái đó Thuận hiện như một kỷ niệm trong hiện tại, một quá khứ không dời đổi được, tôi trôi nổi trong một thế giới siêu thực, trong giấc mộng tỉnh thức triền miên. Tôi mở mắt như một ống kính nhậy, ghi những sự thể rối rít và đồng nhất trong một bầu sương của ý thức ngoi ngóp. Tôi bỗng thấy tôi đứng dậy đi được vài bước từ lúc nào, đứng khựng lại giữa lối, như tên mọi ngơ ngác nghe những nhịp trống dồn đập không phải của bộ lạc mình và nghĩ bị bao vây bởi sự thù địch khít khao khó thoát. Thuận đầy ghế đứng lên, dơ thẳng chiếc áo sơ-mi vừa lộn cổ ra trước mặt, màu vải xanh nhạt :

– Trí xem được không ?

Đôi mắt thất thần dịu dàng như những đêm kinh hoàng của tuổi thơ đã bị vùi lấp (chị Thuận, chị Thuận) tôi đã lớn lên như một sinh vật chạy thoát khỏi những đêm tối đó nhưng giữa ánh sáng ban ngày tôi vẫn còn chạy cuồng vì ám ảnh (chạy tới một đêm tối khác đón đợi). Chị giấu vội mặt, dọn bàn máy, chiếc kéo sáng rơi xoảng xuống gạch, tôi nghe như ánh nắng rực rỡ hơn tuôn tràn qua hai cánh cửa mở toang xô ập vào lưng sắp đẩy tôi ngã nhào về trước. Tôi run rẩy, mồ hôi thấm ướt hai bàn tay, hơi thở trống như bị hút thoát hết ra ngoài; tôi không còn là một cặp mắt nữa, tôi trở thành một khối hỗn hợp thô vụng của khát vọng và bất lực. Thuận đi nhanh vào buồng trong. Tôi trở lại ghế ngồi, hốt hoảng mệt nhọc bỏ cuộc.

Hiệp sẽ không về kịp tối nay, anh lại gặp Phương; anh vẫn chưa đón được đứa nhỏ Phương hứa giao cho. Phương còn đùa giỡn với Hiệp, và có lẽ Hiệp cũng ưa cuộc đùa giỡn, chưa rõ tới chừng nào. Riêng Thuận, chị không hay biết hay làm như không hay biết, chỉ lặng lẽ ẩn sâu trong nhà, trong vòng vây bọc của đồ đạc trơ trọi và tình yêu thảng thốt của tôi như khuôn mặt lầm lì độc ác của một thế giới đang suy đồi. Tại sao tôi yêu Thuận ? Tất nhiên chị không hiểu và chị sợ hãi. Diệp là khuôn mặt đàn bà đầu tiên của một thế giới chia lìa cách biệt, của một tình yêu ở bên kia chấn song nhà giam như một thiên đường kín cửa. Còn Thuận ? Chị là cái bóng chấp chới của một thế giới hiện thực mỗi phút giây tích tụ thành quá khứ lặng lờ, một nỗi buồn hiện hình, nỗi chết dần mòn tự nguyện. Tôi nghĩ đến chị như nghĩ đến chốn yên nghỉ cuối cùng, nơi đó nỗi niềm hư vô trở thành thực thể tự triệt hoài hoài không có lực sinh hoá, cám dỗ, sự vật được giải toả nằm im trong tự tại. Tôi không đòi gì hơn được ngó chị, im lìm như soi bóng trên mặt sông nước cuộn chảy theo thủy triều và tôi quên hết, quên hết, quên cả mặt mũi tôi đang in hằn lên xúc động của chị... (Chị Thuận, em, Trí đây, mở cửa, chị đừng sợ. Chị Thuận, chị Thuận.)

Tôi lấy cớ đợi Hiệp, quanh quẩn suốt buổi chiều bên Thuận. Thuận tìm sách báo trong buồng, mang cho tôi đọc, bỏ vào bếp làm việc, thỉnh thoảng đảo lên trên nhà vài phút, nói đôi ba câu. Thuận bảo tôi đợi Diệp, chị có hẹn Diệp chiều đến chơi ở lại ăn cơm. Trong buổi chiều vô tận, cơn mưa tan khuất, đã đổ xuống ở vùng xa thôi đều những hơn gió mát; tôi đứng tựa cửa nhìn những đứa trẻ nô giỡn đầu dốc lên lộ, bóng mát xanh âm nước của vườn chuối rậm rạp, lắng nghe tiếng động trong các nhà hàng xóm, tiếng máy phóng thanh của phòng thông tin đầu chợ phát bản tin tức địa phương. Thuận lụi cụi trong bếp, sửa soạn cơm chiều, tôi không thể vào tới đó, cũng không thể vào bất cứ một gian nhà nào, tôi bị xô đẩy ra ngoài vòng thân mật của mọi người, không bao giờ có thể ngơi nghỉ. Tôi đã bị hư vô cám dỗ và cứ phải dấn thân mãi vào trong một cõi mù mịt, bất trắc.

Diệp xuất hiện đột ngột, đứng dưới hè thấp ngó lên, vẻ khác thường. Trời còn sáng, xung quanh nhịp sinh hoạt tắt im tình cờ rồi lại đều đều khỏa lấp những lỗ trống của thời khắc. Diệp lách mình, vào thẳng nhà, coi tôi như khách lạ, cất tiếng gọi. Thuận hấp tấp chạy lên mừng rỡ đón Diệp, nhưng chị cũng vấp phải vẻ gượng gạo lạnh lùng của Diệp. Diệp đáp bằng những câu ngắn, cất cao giọng hơn lúc thường và con mắt lạc lõng không biết đặt chỗ nào, nàng vừa vượt qua một cơn xúc động mà sự lan truyền tuy đã yếu nhưng chưa hết. Thuận quay xuống bếp, tôi ngồi đối diện với Diệp và tôi nhìn Diệp không thốt lời nào. Lúc đầu tôi nghĩ như thường lệ chúng tôi gặp nhau tại nhà Hiệp chúng tôi phải kín đáo e dè hơn, không thể bày tỏ lộ liễu tình yêu của chúng tôi trước mắt người khác, dù những kẻ ấy bằng lòng vai đồng lõa. Nhưng dần dần tôi nghe không khí trở nên nặng nề khó chịu, trong mắt Diệp đậu đầy bóng tối, bất động như những lỗ sâu. Tôi hỏi :

– Thế nào ?

Diệp không đáp, bỏ vào bếp với Thuận; hai người nói chuyện ở xa, mãi sau tôi nghe vang những tiếng cười ròn trong gian nhà im vắng hoàn toàn. Trong bữa ăn dưới ánh đèn cầy chập chờn khuya khoắt, điện tắt suốt buổi ấy, tôi hết ngó Diệp lại ngó Thuận; những khuôn mặt nửa sáng nửa tối như bị khắc sâu vào trong một nền tạo vật tăm tối bao trùm gian nhà và thành phố. Diệp tạo được thái độ bình thường, cười nói vô tư với sự phụ họa khuyến khích của Thuận, nhiều lúc dường như hai người quên hẳn sự hiện diện của tôi. Sau bữa ăn, Diệp cáo từ ngay nàng nói:

– Anh ở lại với chị Thuận cho chị đỡ sợ. Chừng nào anh Hiệp về, hãy về.

Có lẽ đó là câu duy nhất Diệp nói với tôi trong buổi ấy. Nghe giọng, tôi chợt hiểu ý Diệp, tôi không kịp biểu lộ phản ứng hay không biết cách phản ứng trước mặt. Thuận, Diệp đã bước ra cửa vừa cười vừa khép hai cánh. Trong góc xa hẳn ánh sáng, tôi ngồi chết lặng, tức Diệp, thương Thuận và khiếp hãi. Tôi nghe Thuận cười:

– Ăn thua gì. Tôi quen rồi mà.

– Em khép cửa cho khỏi gió.

Tôi cúi gầm đầu, nghe vẳng mãi tiếng cười giả tạo của Diệp ngoài cửa, không dám nhìn Thuận, rồi bất mãn về thái độ ngây ngô thú nhận của mình. Diệp, không phải như em tưởng, anh yêu chị Thuận, nhưng không phải như em tưởng. Diệp, em không hiểu hết những dạng thức của tình yêu. Cả Thuận nữa, chị cũng không hiểu.

Chỉ có có Hiệp... Anh hiểu tôi yêu Thuận như hiểu Diệp yêu anh. Tôi ngồi nghe tiếng côn trùng ri ri, tiếng ễnh ương vang rân như giữa đồng trống, cho đến khi đèn bật sáng, chóa mắt ngơ ngác như vừa ngủ dậy. Thuận đứng trong khuôn cửa buồng trong, xanh xao yếu mệt bảo:

– Thôi, Trí về đi. Tôi buồn ngủ quá. Chắc anh Hiệp không về đâu.

Diệp sang sông trên con đò tôi qua lại thường ngày, buổi sáng giữa những người đi chợ về; thuyền chở nặng trôi chậm trên dòng nước lặng. Nàng nhìn trở lại bờ vừa rời xa, người và vật lùi nhỏ lẫn vào nhau thành một khối cử động ngọ nguậy khó phân biệt; căn nhà của Diệp lẫn sau hàng cây mọc cao dần theo dốc đồi và màn nắng mỏng đang buông xuống mặt nước. Lần đầu tiên Diệp vượt ngang con sông trước đây nàng chỉ đi dọc theo một bên bờ (chưa khi nào tôi rủ nàng sang thăm gia đình tôi) nàng đi một mình với ý định táo bạo và giữa sông Diệp hoang mang trông trở lại khoảng ngăn cách thành phố thấy mình bấp bênh trơ trọi không được che chở. Bờ sẽ đặt chân lên chỉ là một hàng cây thấp kín dưới bầu trời rộng, không thấy rõ bến và làng xóm đối với người chưa quen thuộc. Diệp nhủ thầm: Trí, anh ở chỗ nào ? Tôi tới một chốn lạ hoắc, nơi Trí sinh ra và lớn lên, tôi có vào được không, tôi sẽ gặp những ai. Diệp không quan niệm rằng tôi đã bị tách lìa khỏi nơi chốn sinh trưởng từ lâu, trong ý nghĩ của nàng tôi là kẻ nặng mặc cảm vì sự cách biệt xã hội giữa hai gia đình và Diệp vượt qua con sông để chứng tỏ với tôi không trở lực nào ngăn cản được nàng. Màu áo xanh nổi trên dòng nắng sáng, Diệp chóng mặt khi nhìn bóng mình in dưới nước, một thoáng hối hận tiếc nhớ không khí êm mát tỏa từ những chân tường ướt của mái gia đình, nơi mọi bất trắc bị loại trừ, nơi sự ẩm mốc nồng nàn như một chiếc áo giáp phủ thêm một lần lên người, nơi đời sống hoàn toàn quen thuộc như một niềm quên lãng dịu dàng, nơi sự hứa hẹn cùng tương lai lẫn trong cử động... Những người đứng ngồi trên thuyền, câu chuyện họ trao đổi như một bức tường dày có những nét lem luốc kết hợp thành hình ảnh tùy theo tưởng tượng, Diệp ngó mông tới chỗ mở rộng của con sông, tầm mắt bên trái hẹp dần khi chuỗi cây xanh trồi ra và kéo dài tới gần mình. Thuyền cập bến, lúc ấy Diệp mới nghe tiếng nước vỗ dưới sạp thuyền, nàng là người bước xuống sau chót, đặt chân lên những viên đá làm bực vào bờ đất, hai tay nắm chặt hai vạt áo dài và chiếc nón nghiêng che nửa mặt. Dưới bóng mát của hàng dừa trên bờ kinh, Diệp bước trong nỗi hồi hộp khắc khoải. Diệp có tự hỏi mình đang tìm kiếm gì ? Tại sao cứ theo đuổi Trí ? Sao không để mặc Trí với những cơn khùng điên ruồng rẫy? Tình yêu có lẽ chỉ là nỗi niềm hư nguy trói buộc “Tội nghiệp con Diệp” Má tôi nói, má chỉ còn nhớ lần gặp gỡ duy nhất, sự xót thương lấn át cả hình dung đứa con gái xuất hiện bất ngờ một buổi sáng rồi biến mất. Còn Diệp nhớ bà, chỉ thấy hình ảnh người đàn bà tức tưởi bất lực trước nỗi đau khổ của kẻ khác, phát lộ nỗi đau khổ của chính mình, như một số kiếp khác nữa của Diệp – Không, có lẽ Diệp nghĩ: lẽ ra mình nên mặc áo bà ba, áo dài làm cho mọi người chú ý; lẽ ra mình nên bắt Trí đưa mình về hơn là tới một mình tự ý; Trí sẽ giận dữ vùng vằng khi hay biết, thây kệ, Trí phải chịu, phải thua, vì tôi yêu Trí... yêu hơn cả chính tôi...

Chị Lệ quét lá ngoài sân trước, con Liễu bò lê trên thềm. Chị dừng tay ngó người thiếu nữ ở bên chợ qua, đi ngang ngoài rào, cặp mắt dáo dác, cố làm vẻ bình tĩnh. Hai người gặp mắt nhau, khiếu linh cảm của đàn bà giúp họ nhận ra mối liên lạc mù mờ chưa rõ. Diệp đi tới vài bước, vượt qua nhà, rồi ngập ngừng trở gót chị Lệ vẫn đưa mắt dõi theo cử động của người lạ. Người ta vẫn bảo chị Lệ có những nét giống tôi đặc biệt, riêng tôi không nhận ra và tôi không bao giờ muốn chấp nhận điều ấy. Diệp vịn cửa rào hỏi:

– Thưa chị, đây là nhà anh Trí.

– Phải. Nhưng nó không có nhà. Nó đi học dưới Sài-gòn. Cô hỏi nó có việc chi ?

– Bác có nhà không chị ?

– Có. Má tôi trong nhà.

Chị Lệ mở cửa rào, quan sát Diệp. Diệp ôm chiếc nón lá che ngực, mặt đỏ bừng, mắt ướt, nàng vuốt lại đầu tóc tự nhủ : mình phải đi tới, tới nữa. Chị Lệ mỉm cười, có lẽ chị nghĩ tới những ngày năm trước, chị đặt chân xuống bến xe Sài-gòn, một tay ôm bọc giấy, một tay cắp nón, bỡ ngỡ đi trên hè đường đô thành đầy cạm bẫy của bọn đàn ông chờ chực để tới gặp anh Tạc; má chị cũng hồng đỏ, trán lấm tấm mồ hôi, trái tim hồi hộp, bước lính quýnh băng qua những ngã tư dồn nhóc xe cộ. Và chị dịu dàng :

– Em vô đi. Chị là chị hai của Trí.

Chị Lệ bồng con Liễu, dẫn đường: Đi vòng đây em. Diệp theo chị, bước lên thềm, trước những cánh cửa gỗ đóng kín như nhà không người ở, lách tránh chiếc đôn sành bụi bặm đặt ở đầu thềm, bước xuống đất cát mịn những trận mưa còn để lại những dấu trũng của nước chảy giọt từ mái. Ngang nơi cửa sổ nhìn vào bàn viết của tôi, Diệp ngập ngừng, nàng nhìn quanh, ngó thấy chị Lệ quay đầu trở lại thúc giục và đứa nhỏ gục đầu trên vai chị giương cặp mắt tò mò nhìn người lạ. Má ngồi quay lưng ngoài sân, đang làm việc, những công việc lặt vặt bận bịu cả ngày; trông đằng sau bà trẻ hơn trước mặt. Bà dừng công việc ngó sững đứa con gái lạ mặt chưa từng gặp, đứng xá ró, đầu cúi gằm tay mân mê quai nón. Bà không hiểu chuyện gì, đưa mắt hỏi chị Lệ, trong khi Diệp nghẹn ngào nức nở. Trước đó không rõ Diệp mở lời như thế nào với má, Diệp chỉ nói với tôi : “Em đã sang gặp má, em đã khóc với má, với chị Hai. Anh coi...” Có lẽ Diệp chỉ thốt: Thưa bác... rồi bao nhiêu ấm ức dồn nén, những khắc khoải thấp thỏm suốt buổi mai, tuôn thành nước mắt. Má kéo Diệp ngồi xuống ghế, bà ngồi lên bộ ván kế bên, chị Lệ đong đưa ru con.

– Thưa bác... con thương anh Trí...

Má kinh hãi, hết dòm chị Lệ tới dòm Diệp, bà không hiểu phải đối xử thế nào, bà sững sờ. Trong chờ đợi thảng thốt của má, Diệp bỗng dưng cũng nguội lạnh dửng dưng hết khóc nổi nữa.

– Có chuyện gì con nói bác nghe.

Câu nói của má lại khiến Diệp thổn thức. Và Diệp nói, nàng kề lể với má và chị Lệ, nàng năn nỉ má sang hỏi cưới nàng, nàng không muốn đi lấy người khác, gia đình nàng chắc chắn ưng thuận, chỉ bởi tôi không chịu nói với má nên nàng phải liều lĩnh tới “Thưa bác... con thương anh Trí...” Diệp ngừng lại ngơ ngác nghe tiếng cười giễu cợt của chị Lệ.

– Trời ơi. Ai biểu em thương cái thằng khùng cho khổ.

Diệp càng sửng sốt hơn khi nghe má kể lể về tôi. Bà thương Diệp, mong cho tôi lấy được Diệp, nhưng bà không có quyền quyết định, trong nhà không ai có quyền gì với với tôi, tất cả ăn thua ở tôi; rồi bà cũng khóc, bà thuật cho Diệp những nết xấu của tôi, mối đau khổ của bà vì nhận thấy bà cũng không có giá trị nghĩa lý gì với tôi, tôi là đứa con bà thương mến nhưng đã không còn là con bà; bà yêu tôi với mối tình không được đền đáp...

– Nó khùng em ơi. Má chỉ binh nó thôi.

Diệp tưởng mình cầu cứu người khác, rốt cuộc chính nàng trở thành người phải giúp đỡ má. Diệp hăm: “Đã vậy. Không khi nào em chịu thua anh. Anh muốn đi tới đâu em theo tới đó... Anh sẽ không khi nào thoát khỏi tay em đâu.” Tôi hỏi: “Anh đi tới cõi chết. Em theo không?” Em theo tới cùng mà... Em còn có thể làm hơn vậy nữa... Tôi ngỡ Diệp nói trong lúc bồng bột tức khí, tôi không ngờ... Diệp quyết định từ lúc nào? Cái ý nghĩ ghê gớm này ra trong đầu Diệp khi nào? Có lẽ chính Diệp cũng không rõ, không hay, nàng chỉ biết đột nhiên nó như có sẵn nguyên vẹn ở trong nàng, sau khi đặt chân lên bờ trở lại châu thành và nàng cố xô đuổi như một ám ảnh vô lý. Và cứ mỗi bước Diệp đi tới, mỗi cử động, câu nói, mắt nhìn, cả sự im lăng nữa đều như bị quy chiếu theo với ý nghĩ đã mọc. Càng lâu nó càng trở nên thân quen, nhập biến, tiêu tan, hóa thành một hành động quyết định. Có thể buổi Diệp bắt gặp tôi trong nhà Thuận là sau buổi sáng nàng đã gặp má tôi và chị Lệ. Cũng có thể là trước không quan hệ. Khi mọi sự đã nhập vào quá khứ, thời gian không còn là một dòng luân lưu nữa, chúng dồn díu lại trên cùng một bình diện như những mảnh gương vụn được kết hợp bằng sức của tưởng tượng theo một hướng Định Mệnh... Và Định Mệnh lật mặt chỉ là quá khứ được sống lại trong một thời gian giả tạo.

Con Liễu đã ngủ được đặt nằm trên võng, giữa ba người đàn bà ngơ ngác không hiểu phải làm gì thêm. Má có lẽ còn thổn thức cầm vạt áo chấm mắt, Diệp loay hoay với chiếc nón lá ôm trên đùi. Chị Lệ? Diệp ngước mắt cầu cứu chị. Chị xổ tung mái tóc, rồi bới lại, đó là thói quen của chị từ ngày con gái mỗi khi gặp trường hợp khó xử. Và chị cất tiếng cười khỏa lấp sự bối rối. Mái tóc rịt nắng, nồng mùi dầu dừa trong buổi trưa nắng đầu thềm soi tấm áo bà ba trắng ửng hồng, dưới đáy túi áo giấu một bông lan úa héo rã cánh nhưng nức hương. (Tiếng cười vô tội riêng mình nghe vang trên những đường xóm quen thuộc chị và tôi đi qua.)

– Em khờ vậy. Ai biểu em yêu nó. Em không tìm hiểu nó...

– Hai, nói tầm bậy hoài.

Má đứng lên, ra bên lu nước, xối rửa mặt. Chị Lệ ngoắt Diệp theo mình lên nhà trên. Diệp đi vào một vùng tối mát hơn đồ vật ẩn náu im lìm như không được dùng đến. Diệp đứng giữa nhà, nhìn quanh, ngó lên bàn thờ cha tôi, ngó vào trong khu vực riêng biệt của tôi nhận rõ được lằn ranh vô hình của cái thế giới tôi thiết lập. Bốn cây cọc mùng ở bốn góc giường mọc như những ý nghĩ dưng không và Diệp chú mắt vào vệt sáng đậu vắt ngang mặt giường, vệt sáng xuyên chếch ngăn chia chỗ đứng của chị Lệ và Diệp.

– Em thương Trí thiệt không?... Nếu em thương nó thiệt, em có gan bỏ nhà theo nó không? Em không hiểu thằng đó nó thù ghét gia đình, nó thương nổi mình em là quá, nó không chịu nổi gia đình bà con cô bác đâu. Ngay như má và chị nó còn coi thường... Nếu em thương nó thiệt... em nên rủ nó trốn đi... Chị tin nó sẽ nghe em, chị hiểu nó hơn hết...

Xuyên qua vệt sáng. Diệp cố gắng nhìn chị Lệ như muốn nhận định những bí ẩn về tôi qua gương mặt nhòa tan trong một giọng nói khác lúc trước. Buổi sáng già êm, không chuyển dịch, như vườn tược lắng tiếng, giọng nói mở ngỏ và ôm ấp một không gian cất giấu trong dĩ vãng, Trí, Trí. Diệp nhìn thấy Trí bằng cặp mắt và trí tưởng của chị Lệ; Diệp nhìn tôi qua những kỷ niệm thơ ấu của hai chị em. Nhưng tôi đâu còn nơi đó nữa, tôi không phải là cái bóng quá khứ được phóng lớn. Cả chị Lệ nữa, chị cũng không hiểu được gì hết. Tôi... tôi... là sự không thể trở thành... tôi không thể vươn tới một hình thù nào rõ rệt... chỉ là sự di động vô giác của một sinh vật bầy nhầy... Diệp hoang mang trong thế giới được vẽ bằng tiếng nói bấp bênh, thế giới của những hình bóng mập mờ đã xuất vong khỏi những người sống. Diệp tự nhủ: đó là Trí, đứa em của chị Lệ, những ngày chị em hòa thuận: Trí không có người bạn nào khác hơn là chị, Trí không có giấc mộng nào khác hơn là giấc mộng chung chia sẻ giữa hai người trong không gian mát rượi của khu vườn vây quanh nhà mà mỗi gốc cây, mỗi bóng dâm là một vùng rộng hoang vu... Cho đến ngày, phải, cho đến ngày... Tiếng trẻ khóc mê dưới võng, bà ngoại nó ru hờ... (Ví dầu... ơ... cầu ván đóng đinh... ơ... gập ghình... ù... ơ... khó đi... u... ơ...)

– Em tin chị đi... Rủ nó trốn thiệt xa, xa hết mọi người. Chỉ còn em với nó, em sẽ chiếm được nó hoàn toàn. Đừng cho nó ngó thấy một hình ảnh quá khứ nào... Nó cần như vậy, em à. Chị không gạt em đâu. Em còn ở đây, em không khi nào giữ nổi nó... Chị biết một ngày kia rồi nó cũng bỏ đi một mình... Tốt hơn là em theo nó trước... Diệp à.

Chị Lệ đứng tựa vào bàn học, mặt ló vượt khỏi vệt nắng xuyên và như bị cắt lìa khỏi thân bay trong nắng mờ ảo của vùng trên ánh sáng. Hai mắt chị mở lớn như hai mắt Diệp, hai người đàn bà thôi miên lẫn nhau. Chị Lệ ngoắt Diệp bước tới. Diệp nghĩ mình phải tới gần hơn nếu muốn nhìn rõ, tiến sâu vào trong cái hành lang chật chội vang những bước chân của tôi đã qua đó rất lâu để đuổi theo cho kịp. Chị Lệ cầm trên tay tấm hình của Thuận, tấm hình lúc trước được đặt chéo trên chồng sách cao Diệp thấy ở xa ngỡ là hình chị Lệ. Chị đưa cho Diệp coi và hỏi :

– Em biết người trong hình này không.

Diệp ngó trân người đàn bà lạnh lùng thanh thoát một lúc một, người đã chết từ lâu ngó lại cõi dương, như quên lửng hẳn gương mặt thân quen. Diệp mang tấm hình ngồi xuống giường mắt nàng dần nhòa đi chỉ thấy lấp lánh trên mi những mỏm nắng li ti chớp lóe, ngực bóp xiết, cổ đặc nghẹt. Mãi sau Diệp mới kêu được: Chị Hai... Chị Lệ dịu dàng vuốt ve mái tóc Diệp, nhắc nhở :

– Ai đó em ?

– Em thiệt không ngờ...

– Ai đó em ?

– Chị Thuận...

– Ai ?

– Em biết. Chị Thuận...

– ờ, rồi sao ?

– Chị Hai...

Diệp lau nước mắt, ngó lên nhìn thấy tôi giống chị Lệ. Chị Lệ hao hao như Thuận, vẻ buồn phiền u uẩn được giấu kín trong vài nét nhỏ mơ hồ trong khỏe nhìn, nét môi, vừng trán, bên cánh mũi. Diệp thấy chúng tôi đều lạ mặt với nàng, đối địch với nàng và nàng lẻ loi trơ trọi. Chị Lệ gỡ tấm hình trong tay Diệp, đặt trả về chỗ cũ, những ngón tay Diệp tự động muốn giữ chặt khung kính có góc sờn bén nhưng lại tự động rời ra. Diệp ngó gương mặt thản nhiên vô tri thu nhỏ, chập chờn như cách xa lắm và tự nhủ: chuyện gì vậy? Chuyện gì xảy ra quanh tôi, thắt buộc tội... (Định Mệnh, nỗi cô độc tuyệt đối. Định Mệnh sẽ khuất bóng khi mình hết đơn lẻ chăng ?) Và Diệp ngó trở lại chị Lệ tìm trong mắt chị những ý nghĩ đích thực.

– Chị Hai... em khổ quá...

– Em tính sao? Diệp...

Diệp không tính được, Diệp nghe tiếng chân má lên gần, nghe tiếng má chất chứa sự kinh sợ: Tụi bay làm gì trên này? Hai... mày không được xúi biểu tầm bậy, tầm bạ nghe... không. tụi con nói chuyện chơi, chị Lệ nói. Má tần ngần an ủi Diệp: Để má thử nói với nó... má thử nói với nó... Biết đâu nó không nghe lời má... Bà không tin tưởng chút nào trong giọng nói của bà. Bác ưng con, con khỏi lo phần bác; cần nhất là nó... để bác nói. Diệp cúi gầm mắt, còn chị Lệ không nhúc nhích; bà chờ đợi trong không khí ngột ngạt mỗi lúc như muốn đẩy bà ra ngoài. Bà đưa mắt cho chị Lê dòm chừng Diệp nhưng bà vẫn không thể bỏ đi.

– Để con đưa Diệp ra đò. Má coi chừng con Liễu giùm con. Đi em.

Suốt từ đó, Diệp cử động thất thần, không nhớ tưởng. Nàng đi bên chị Lệ, nghe loáng thoáng những câu nói của chị, trí óc bị hút xoáy vào một điểm xa vời ngoài cõi thực. Diệp không khóc, không nghẹn ngào, thân xác nhẹ bồng như khói. Diệp bỗng nói, trồi khỏi một vùng sương mù của đáy thân : Chị Hai à... em phải tính... em không chịu thua... Chị Lệ nắm lấy bàn tay của Diệp dẫn đi, một tay quơ tạt theo những hàng lá bên đường. Chị kể về một đứa nhỏ tên là Trí, những điều có lẽ chính tôi cũng đã quên lãng hoặc không hay biết... Trí, Trí... Diệp gọi thầm... tôi sẽ phải đi tới cùng, dù sao tôi cũng phải đi tới cùng... Đứng trên bến nhìn sang châu thành, lần thứ nhất trong đời Diệp cũng có cảm tưởng quen thuộc của tôi : người và vật thường ngày giáp mặt thuộc về một cõi khác, mình ở một cõi khác, chốn chân không mình rớt xuống hun hút không có gì cản giữ được... Phải thế chăng? Phải chăng người ta thực sự trưởng thành khi tách lìa mọi sự vật thân yêu giả dối, ném mình vào cõi mông lung phải tự biến cải cho phù hợp hoặc phải hóa kiếp để thích nghi. Diệp dợm bước chân xuống đò, chị Lệ còn níu lại nhìn nhau như một lời ước hẹn.

– Có sao sang cho chị hay nghe Diệp ?

 

Lang báo cho tôi hay mấy bữa Diệp nghỉ không tới trường, dường như có người dưới Sài-gòn lên coi mắt Diệp. Một tên kỹ sư du học ở Pháp mới về nước, cả trường đều bàn tán xôn xao về chuyện đó. Tôi nói: Vậy hả? Có gì lạ đâu... Lang ngó tôi như một quái vật, không đoán xét được tình ý của tôi: Thiệt hay giỡn... tan vỡ sao? Thiệt chớ. Trước sau nó cũng lấy chồng chớ, ăn chung gì. Tôi rót thêm la-ve vào ly của Lang. Chúng tôi ngồi trong một quán cóc ở bến xe đò, buổi sáng ồn ào đông đúc. Bàn bên ông quận trưởng cảnh sát châu thành ngồi uống cà phê với đứa con gái út, chừng mười một mười hai tuổi vừa đọc tiểu thuyết trong nhật báo vừa ăn điểm tâm. Con nhỏ già khằng chăm chú nhìn xuống trang báo gấp hẹp, miệng nhai bánh mì, kề cho ba nó nghe về bước gian truân mới của nhân vật nó theo dõi hằng ngày. Ông quận trưởng cảnh sát hỏi sang chuyện trong trường từ ngày con ông Pháp được giải ngũ về, việc xích mích giữa hai bố con. Trong cái châu thành nhỏ bé, buồn tẻ này, người ta chú ý dò xét lẫn nhau như con nhỏ ham đọc tiểu thuyết, đăng dần từng ngày. Tôi lớn lên ở đây, dần dà rồi tôi cũng để lại cho người ta một tiểu sử làm câu chuyện kề trong quán nước, buổi tối quanh mâm cơm hay những khi họp mặt người ta đã chán không muốn dòm thấy nhau nữa. Một mối tình tan vỡ. Phụ ngãi tham vàng. Trước hết là bọn học trò trong trường phanh phui, sau tới người lớn. Diệp sẽ bị nhìn như kẻ phụ bạc và tôi như kẻ khốn nạn đáng xót thương, tôi đọc rõ trong mắt Lang những điều ấy. Những ý nghĩ của kẻ khác tuy thế cũng len lẫn xâm nhập vào tôi, cũng làm tôi đau đớn phút chốc.

Tôi mong ước, chờ đợi ngày Diệp tự ý lìa bỏ tôi, nhưng tôi vẫn buồn, dường như trong thâm tâm tôi vẫn hi vọng một điều mơ hồ nào trói buộc Diệp lại với tôi. Diệp phải sống cuộc đời của nàng như tôi tiên đoán còn tôi chìm đắm ngụp lặn trong nỗi hoang mang dồn dập của tôi. Diệp không thể đổi khác, cũng như tôi, tình yêu còn lại như nỗi bất lực chua cay. Lang cười giễu: Không rõ kỹ sư thiệt hay giả... hắn tưởng nói như vậy để an ủi tôi. Tôi chỉ cười, không biết nó nhìn nụ cười thế nào, tôi ngó thấy mặt hắn trùm một vẻ trang nghiêm thương xót của kẻ từng trải già dặn: Đàn bà như vậy đó, không khi nào họ hiểu được hạnh phúc. Thường tôi đồ quạu khi phải nghe những câu triết lý loại ấy nhưng lúc đó tôi bình thản không mảy may xúc động: Nói chuyện khác đi... Lang bận công chuyện phải về trường. Hắn đi gần tới bên chiếc xe máy dựng bên hè, bỗng lại kêu : Trí, còn quên chuyện này. Hắn trở lui đứng bên, ghé vào tai tôi thì thầm : Ông Hoanh bị bắt rồi... biết chưa ? Tôi ngửng lên bắt gặp cặp mắt Lang dò xét, hắn nghĩ tôi vẫn còn hoạt động với ông Hoanh. Coi chừng ổng bị bắt cóc, gia đình kiếm mà không biết bị giam ở đâu. Tôi đáp lững lờ : Vậy hả? Lang đi khỏi, tôi ngồi một mình, nghe mặt mũi bứt rứt vì hơi rượu bốc nóng. Tôi quên hết, mọi ý định trong ngày. Ngồi trên đò, trở về nhà tôi nghĩ Diệp bỏ tôi càng chứng tỏ tôi không phải là của Diệp, không phải của bất cứ người nào. Có gì đáng thắc mắc đâu ? Tôi đã nghĩ đúng, tôi chỉ còn mình tôi trong sự lựa chọn kiếp sống. Trong bữa cơm má tôi vô gọi chuyện và thấy tôi ngồi im không biểu lộ thái độ phản đối, bà đã vụng về hỏi: Con có tính lấy vợ không? Con có thương đứa nào không? Chị Lệ liếc tôi đợi phản ứng, một lát thấy tôi vẫn cắm cúi ăn như không nghe, chị nói: Thằng tàn nhẫn, nó biết thương ai ! Má tôi chỉ kịp la: Hai... tôi đã liệng bể chén cơm vào vách nhà, miểng văng ra tới sân, lớn tiếng: Tôi không cần ai lo cho tôi. Không muốn cho tôi ở nhà này nữa thì tôi đi. Rồi tôi trở lên giường nằm. Phía sau má tôi rầy chị Lệ, tôi nghe chị khóc thút thít trách má tôi chỉ binh tôi để cho tôi khinh chị, coi thường chị.

Gặp Diệp tôi không nghe thổ lộ gì hết. Diệp tươi cười vui vẻ hơn, nàng muốn chọc tôi. Lúc sắp chia tay, tôi thản nhiên hỏi: Ông kỹ sư của em thế nào ? Diệp đáp: Em chưa thấy mặt. Mà ăn thua gì tới anh mà anh hỏi, anh đâu cần. Tôi cố cười : Anh hỏi chơi cho biết. Bao giờ thì đám hỏi ? Diệp lập nghiêm. Em cũng không rõ. Chắc cũng còn lâu. Em nghĩ còn ngày nào mình cứ yêu nhau ngày đó, đừng tính gì hết, phải không anh? Chuyện đâu nó vô đó, không có gì thay đổi. Tôi hỏi : Sao mình không từ biệt sớm cho rồi ? Diệp cười : Sớm hay muộn đối với anh có quan hệ gì đâu. Còn em bây giờ em hiểu, em cũng không cần. Dù em có lấy chồng em vẫn còn yêu anh... Tiếng cười lanh lảnh giả tạo. Tôi trực cảm Diệp đang toan tính mưu mô gì sau lưng tôi. Tôi ngó Diệp và lần đầu tiên tôi thấy nàng dữ tợn khác thường. Mái tóc xõa bay trên một nền trời vàng hoen, chúng tôi đứng trên một bãi cỏ may ngoài đồng trống, mắt sáng như cặp mắt mèo, môi hé nửa vời như khiêu khích, ngực dườn thẳng đưa lên cao, hai cánh tay dang ngang về sau gấp lại đuổi bắt những lọn tóc gió... Em có thể... cho anh... tất cả, em cũng không cần mà. Mắt Diệp lim dim rình rập cử động của tôi.

Và nàng lại cười, một vài nốt cao ngắn, thét rồi em cũng muốn điên khùng như anh.

Giờ tôi nhận thức được rằng cuộc đời của một người không phải được tạo thành trong phạm vi giới hạn của không gian và thời gian hắn chiếm đoạt được. Sau lưng hắn, xung quanh hắn, hắn không trông thấy (và có thể mở rộng đến mờ mịt) và có thể cả trước mắt hắn, những người khác, những cuộc đời khác xoay chuyên, đụng chạm, kết hợp, thúc đẩy, truyền tạo ra hắn như một sản phẩm chia lìa đồng thời là một mắt nối trong sợi dây trói chung toàn thể.

Tôi tưởng kiếp sống này là của tôi, cuộc đời này tôi quyết định nên tôi thất vọng ê chề. Tôi không tìm thấy được mình vì tôi ở ngoài khoảng không gian và thời gian của cơ thể tôi. Ngông cuồng và tự ái nhốt chặt tôi vào hư vô mộng tưởng - Đôi lúc tôi bắt gặp một vài hình bóng của mình ở người khác nhưng tôi không biết làm sao để kết hợp thâu đoạt vào mình. Cái khuynh hướng hủy diệt như một ngọn lửa ngầm đốt rụi hết mọi liên hệ. Và như thế tôi chẳng còn gì.

– Tôi nói thật cậu đặt nhiều vấn đề quá. Vô ích - Cậu thử tìm cho ra căn bệnh gốc, chữa một lần cho tuyệt – Những cái khác còn lại là vấn đề thời gian.

Gốc bệnh của tôi là đâu? Thời ấu thơ hay hoàn cảnh xã hội? Là dòng sông ùa đến trong những đêm thao thức hay khát vọng của tuổi mới lớn bị bóp nghẹt sau lần lựa chọn đầu tiên? Là cơn điên của cha tôi, mối tình của chị Lệ, hình ảnh ngậm ngùi của má tôi hay là Diệp, Thuận và Hiệp? Vẻ ung dung thư thái của Hiệp, nhiều khi bắt tôi nghĩ anh còn quá hơn tôi, căn bệnh của anh đến độ tuyệt vọng, ảo tưởng khỏe mạnh chỉ là mối an ủi cuối cùng. Tôi không hiểu Thuận có biết rõ về Hiệp, tôi thường tưởng rằng khi tôi chuyện trò với Hiệp ở buồng ngoài, Thuận nằm trên giường ở trong lắng nghe và, tôi vẫn có ý muốn cho Thuận nghe rõ câu chuyện của hai chúng tôi – Để Thuận hiểu rõ Hiệp? hay hiểu rõ tôi ? Sự thật Thuận có chú ý không, tôi không thể biết. Nhưng riêng tôi nói với Hiệp tôi nghe mình được gần gũi với Thuận hơn là lúc trực tiếp đối mặt với chị.

– Không phải anh à... Em bị ám ảnh.

Gần như lúc nào điếu thuốc cũng cháy trên môi Hiệp, trừ những giờ anh làm việc trong lớp. Tinh ý có thể nhìn ra những lúc tinh thần anh bất định, anh dụi tắt điếu thuốc nhiều khi mới chỉ cháy một nửa và phút sau anh lại đốt điều mới.

– Ai không bị ám ảnh. Không nên thắc mắc nhiều quá, nhất là đừng tưởng tượng thêm. Vô ích. Hồi tôi mới lớn ấy, tôi cũng nhiều mặc cảm như thế. Ở trong nhà hễ ông bố tôi ở nhà trên thì tôi lủi xuống nhà dưới, ông bố tôi xuống nhà dưới thì tôi ra ngoài hè. Tôi nhớ là ông bố tôi dữ đòn lắm và có lẽ từ lúc tôi lớn hai bố con không hề có nói chuyện với nhau – Tôi bỏ nhà trốn lên Hà-nội– Luôn luôn tôi bị ám ảnh là tôi không thể yêu ai và cũng chẳng ai thèm yêu tôi – Nhờ có kháng chiến tôi mới giải thoát được phần nào. Nhưng riêng với ông bố, tới khi ông chết tôi ở xa không về được, có lẽ đến khi nhắm mắt ông cũng quên là có một thằng con là tôi...

– Ít nhất vào thời của anh, anh còn có đường để thoát ra ngoài những mối ám ảnh riêng tây. Còn bây giờ?

Hiệp búng mẩu thuốc ra tới ngoài cửa, vào trong ánh nắng :

– Bây giờ... ờ... bây giờ...

Hiệp nín im, bao giờ anh cũng bỏ lửng câu chuyện ở chỗ then chốt. Không khi nào anh mở cánh cửa cho tôi nhìn vào trong anh, anh để tôi đứng ngoài đập gọi như Thuận. Biết đâu, nếu Hiệp để cho trông rõ anh, tôi có thể nhìn thấy lối của tôi. Có thể như thế?

– Anh không làm gì nữa?

Hiệp trố mắt ngạc nhiên :

– Tôi làm gì ?

Chúng tôi đứng trên bờ đất dốc. Dưới trũng là lò gốm với mái ngói úp kín xô lệch, như sát với mặt đất; ngoài sân xếp lớp những bồn kiểng đã nung và những món đồ đất mới nặn đang phơi. Một người đàn ông ở trần vận quần xà lỏn chui vô trong của chiếc lò đất kế bên như một lỗ tò vò.

– Em nghĩ anh bỏ kháng chiến, bỏ miền Bắc vô đây – không lẽ hiểu biết như anh, anh tìm vô đây chỉ để được yên thân cho riêng cá nhân sao. Anh phải làm cái gì để chứng minh là anh lựa chọn đúng chớ...

– Người khác người ta dành làm hết. Cậu nghĩ tôi có thể làm được cái gì nào. Cậu bảo tôi với...

Hiệp cười, tiếng cười nhỏ yếu không vững chút nào, anh không dám quay nhìn tôi. Thuận đang lững thững một mình đi theo con đường mòn xuống lò gốm, tà áo bay phất như phủ trên những đám cỏ cao.

– Hồi ở trong bót Catinat, em có gặp một thanh niên Bắc di cư cỡ tuổi em. Hắn tên là Minh. Minh nói với em khá nhiều chuyện. Bây giờ có lẽ hắn chết rồi... Từ hồi đó em không gặp lại Minh... Chắc rằng Minh biết phải làm gì chớ...

Hiệp mải nhìn theo Thuận, đang lùn nhỏ dần trên lối dốc rồi biến mất dưới mái ngói xám đen; đằng sau mái ngói ấy bờ đất cao hơn bờ đường này trên mọc những bụi rậm gai góc. Trên lộ những chuyến xe lô bóp kèn ở những khúc quành nghiêng nguy hiểm trước trường sơ học và trạm kiểm soát vào châu thành.

– Cậu nghĩ tôi quan trọng...

Hiệp ngó tôi, quay nhanh giấu vẻ gượng ngùng bước xuống lối theo Thuận. Tôi còn đứng lại trong mối bất mãn nhen nhúm một chút cảm tình thương xót. Hiệp như bị độ dốc kéo đi mau hơn Thuận, anh ngoảnh cổ lại vẫy: Xuống dưới này, Trí..

– Tôi muốn sống yên thân cũng khó... Người ta đều nhìn mình như người có âm mưu gì vậy... Tôi làm được gì ?

Buổi sáng Hiệp được mời đến ty Công an để khai lý lịch và yêu cầu làm số gia đình, lúc trở ra anh gặp tôi ngoài ngã tư. Hiệp không giấu được vẻ ưu tư buồn bã.

– Họ hỏi tôi tai sao lại có ý định lên ở hắn trên này? Tôi phải bỏ lớp dạy để đến trả lời những câu hỏi lẩm cẩm như thế. Họ bắt tôi khai hai người bạn thân nhất của tôi, tôi khai ông Pháp với cậu đấy. Cậu nghĩ thế nào? Thực thà tôi chỉ muốn ẩn dật.

– Anh không làm gì, sao anh lại cứ nói. Em biết nhiều đứa học trò còn có cảm tình với kháng chiến... chúng nó khó chịu lắm...

– Tôi sẽ không nói nữa... nhất định không nói gì nữa...

Hiệp rủ tôi vào một quán vắng uống nước. Tôi dạy anh cách thọc bi-a và tôi nói : anh khai tôi là bạn thân, bất lợi cho anh. Hiệp chỉ cười không quan hệ lắm. Nhiều lần tôi định hỏi anh về Kim và Phương nhưng đều thấy không tiện. Anh chăm chú vào trò chơi, vui đùa và dường như quên những quấy rầy vừa qua.

Những lúc ấy tôi thấy tôi thật thân thiết với Hiệp. Nhưng sự thân thiết ấy vẫn bị hủy phá bởi sự đối nghịch giữa tâm trạng khắc khoải nóng nảy của tôi và thái độ lừng khừng lạnh nhạt của Hiệp. Tôi vẫn còn nhiều vấn đề phải giải quyết với anh và anh thì luôn luôn từ chối như muốn đẩy tôi đứng vào vị trí cố hữu của tôi. Hiệp bỏ rơi tôi cũng như Hiệp bỏ rơi Thuận, anh sống một mình. Một mình hay với những người khác nữa?

Trong những ngày ấy, không khí châu thành đầy đe dọa khó thở. Sau ông Hoanh một số học sinh trong tỉnh cũng bị bắt giữ. Biểu ngữ, khẩu hiệu kẻ dăng đầy đường phố, trên cả mặt nhựa quốc lộ; các ngõ vào tỉnh, các góc phố chính những tấm bảng lớn dựng lên suy tôn lãnh tụ và chế độ: hình ảnh được treo trên nóc chợ, trước các công thự. Các tổ chức dân chúng được thành lập, hội họp, thảo luận với những bộ mặt tay sai quen thuộc. Ông Pháp gặp tôi ngoài chợ, kêu vô quán cà-phê căn dặn: Mày coi chừng nghe Trí. Làm tầm bậy tầm bạ cực má mày lắm nghen. Tôi đáp: Con làm gì đâu.

Tôi bỗng nhận ra mình đang kéo lê cuộc đời nhạt nhẽo vô vị, không biết đang đứng ở phía nào. Tôi đi lai thong dong, quay cuồng thắc mắc, xa lánh ông Hoanh và các bạn cũ, phải chăng đó là do sự hèn nhát? Mặc cảm phạm tội dày vò càng làm tâm thần tôi trở nên hốt hoảng bất định. Tôi tiến lại gần hơn mấp mé sát bờ những cơn cuồng trí và tôi phải tự trấn tĩnh với mình : Mày không điên đâu, mày không thể điên được đâu. Nhiều buổi sáng tôi tới ngồi cả giờ trong góc quán của Phương, ngơ ngác trong một vùng sương mù trắng xóa cả trí tuệ. Đêm đến tôi ngủ với mộng mị nặng nề khắc khoải. Những lúc sáng suốt, tôi nghe sự thờ ơ vang động trong khắp thân lan ra ngoại vật. Mỗi khoảng thời gian tỉnh thức, tôi như trồi lên giữa mặt biển im vắng dưới một bầu trời trắng bạch không gợn mây. Tôi lui tới quán của Phương thường hơn và ngồi quen một chỗ cách biệt. Phương hỏi chuyện tôi, vỗ về an ủi tôi; có lẽ nàng nhìn vào mặt tôi tưởng thấy ở đó sự si mê ngớ ngẩn khiến nàng thương hại. Tôi tìm thấy ở Phương một người tâm sự giả trá, tôi kể lể với Phương chuyện tình giữa Diệp và tôi theo con mắt của người ngoài, tôi đóng một vai trò và tôi sống thực. Cùng với lời nói thoát đi, tôi nghe chính tôi đang thất vọng, tôi nghe tôi yêu Diệp, đến chết được, tôi trở thành kẻ tình nhân ngây thơ đáng tội nghiệp. Trong mắt Phương, rồi tôi không còn phân biệt được sự chân thật và sự giả dối nữa. Bi bỏ lại một mình, tôi nghĩ biết đâu đích thực tôi chẳng là kẻ nhu nhược yếu đuối như tôi phơi bầy với Phương. Phương sẽ mang theo trong đời nàng con người ấy của tôi để tôi còn lại là tôi, vì chúng tôi sẽ chẳng liên lạc với nhau nhiều. Nhưng cũng có thể mọi thể dạng khác của tôi trước những người khác cũng chỉ có ý nghĩa tương tự thế thôi. Và tôi hóa thành niềm hư vô bảng lảng...

Tôi không còn thể nhớ trong trường hợp nào, tâm trạng nào tôi đã mời Phương về tỉnh. Phương nhận lời, nghỉ một buổi chiều và hẹn tôi tới đón nàng tại nhà, Phương ở trên một căn gác treo trong ngõ hẻm chật hẹp chung với một người bạn gái, thế giới của mỗi người thu gọn vào trong khoảng hai chiếc giường khá đẹp so với căn gác và khu vực, tôi không gặp đứa con nhỏ của Phương hứa cho Hiệp, có lẽ Phương gửi cho người khác nuôi, Trong lúc tìm nhà Phương, cũng như khi đã ngồi trong xe lô trên đường về tỉnh, tôi ân hận đã rủ Phương, tôi không hiểu mục đích thầm kín của tôi cũng như của Phương. Có phải tôi muốn cho Phương gặp Hiệp? Hay tôi muốn cho Diệp ngó thấy tôi đi với người đàn bà khác? Phương nhận lời như tìm một cuộc giải trí hay nàng thương hại tôi thật sự? Điều chắc chắn là tôi và Phương về tỉnh S là một sự cố ý của tôi trước mắt thiên hạ. Tôi muốn phô bầy điều gì? Đề làm gì ? Tôi thấp thỏm nôn nao suốt buổi như một người say vẫn nhìn rõ mọi cử chỉ sẽ làm, nhìn rõ phản ứng của kẻ xung quanh nhưng không thể nào tự chủ được. Trên đường nhà cửa, xe cộ đều treo cờ, những lá cờ nhỏ màu vàng sọc phất phới trong gió giữa vùng đồng trống. Châu thành có tổ chức một cuộc chợ phiên tại ngay bờ sông. Những gian hàng dựng lên bằng những mảnh ván gỗ thùng sữa, mầu trắng ngà với những hàng chữ dấu đen quay ngang dọc. Tôi cầu mong không gặp ai. Đặt chân xuống bến xe, tôi nhìn đám đông trong chợ lúc nhúc sợ hãi, nghe vang vang bên tai loa phóng thanh phát đĩa nhạc rền rĩ trên một khoảng đường dài vắng vẻ. Phương ngạc nhiên vui thích trước cảnh vật, hỏi han luôn miệng, từ ngày di cư lần thứ nhất Phương ra khỏi thành phố Sài-gòn về một tỉnh lỵ miền Nam không phải là Ô-cấp. Phương vào chợ trái cây, dạo khắp các hàng, hỏi giá cả mua từng gió. Tôi theo sau nàng giả bộ lơ đãng, ngó ngang ngó ngửa không nhìn rõ mặt người như một tên tội phạm bị áp giải ngoài phố. Chúng tôi đi vào trong chợ phiên vắng hoe mở dọc theo một đoạn đường bên bờ sông. Phương dừng trước các quán hàng nhìn ngắm, thử thời vận với các trò chơi đen đỏ. Tôi ngó ra ngoài mặt sông đang hút buổi chiều xuống thấp, trả lời Phương khi nàng hỏi về chỗ ở của tôi bằng cách chỉ tay sang phía xóm làng lấp sau bờ cây xanh. Chúng tôi vào quán giải khát cất trên sông, tôi tựa tay trên thanh lan can ngó những đợt sóng nước đập vào những chân cừ ở hai góc nhà sàn. Ông Pháp vào ngồi sau lưng, tôi trốn mặt và tôi không rõ phản ứng của ông thế nào. May mắn Phương cũng đang mải ngắm nhìn dòng nước ở phía xa mơ mộng và buồn bã. Tôi ngồi chết trân trên ghế, đợi ông Pháp ra khỏi quán mới đứng lên. Phương nói: Hình như anh buồn. Chúng mình có thể đi qua nhà Diệp. Tôi đáp: Không, không. Sợ sao? Phương cười vui. Không. Phương đòi đưa đi dạo xem phong cảnh châu thành. Tôi bối rối không biết phải dẫn nàng tới đâu, nàng nhìn thấy được gì trên những đường phố cũ kỹ không mầu sắc, đời sống ngưng đọng chật hẹp trên những khuôn mặt phơi trần lạ hoắc? Tôi đưa Phương lên đứng trên gò cao nhà thờ. Quốc lộ chạy phía dưới qua một ngã sáu, một ngả đốc leo lên đồi phía trước mặt đưa tới nhà Diệp, một ngả dốc ngắn khác trải đá xuống trũng có thề vòng lại nhà Hiệp và Thuận, trạm xăng và bệnh xá ở hai đầu một phố đối diện hiu quạnh, cái bồn tròn nằm giữa khoảng rộng người cảnh sát đứng trơ vơ chỉ đường cho hai người đi xe máy và chiếc thổ mộ cũ kỳ. Phương bảo buồn quá, nàng không thể sống ở đây, những buổi chiều, những buổi tối và cả những buổi sáng phải làm gì cho hết. Tại sao người ta có thể sống mãi như thế mãn một đời người? Lúc ấy tôi muốn nói với Phương Hiệp đang ở trong một gian nhà cách chỗ nàng đứng vài trăm thước. Chợt tôi nhìn thấy bóng dáng quen thuộc của Thuận phía xa trên quốc lộ, trong bờ đất nhỡ vòng ngoài mặt nhựa. Thuận đi một mình, tiến về phía nhà thờ, lấp loáng trong nắng cuối chiều loang màu vàng diệp. Tôi hồi hộp đứng ngay tại chỗ nhìn người đàn bà đang đến gần. Chuông nhà thờ bỗng đổ hồi sát bên tai choáng váng, Thuận biến mất không rõ ở chỗ nào như một huyễn tượng, cả Phương nữa khi tôi quay đầu lại. Phương bỏ ra ngồi trên phiến đá sau nhà thờ, nơi tôi thường theo dõi Hiệp và Thuận, nhìn xuống đường rầy dưới trũng bị phủ lấp bởi bờ bụi rậm rạp. Phương mỉm cười, và chúng tôi trở lại bến xe, diễn qua phố chính thêm một lần nữa. Tôi không nhìn ngó thấy ai, mọi sự vật khuất chìm như trên tấm phông cảnh, đầu óc bập bềnh như chiếc sọ dừa trôi giạt trên dòng nước cuốn.

Về đến Sài-gòn, thành phố đã thắp đèn sáng. Bước ra khỏi chuyến xe chật chội, ngồi giữa người tài xế và Phương bị chèn ép ê ẩm cả bên mạng sườn và bắp đùi, tôi như tỉnh dậy sau giấc ngủ muộn vào buổi chiều nắng chói, nhịp động của đường phố đậu trên mặt mũi bứt rứt. Tôi đưa phương về nhà nàng, bước mau khỏi ngõ, lang thang trong các phố vắng dài, ngây ngất trong cơn sốt đứng. Tôi nghĩ tôi phải biệt tích, không thể biệt tích trong cơn điên thì chỉ còn một lối, lối duy nhất... trước sau tôi cũng dẫn mình. Không hy vọng nào cứu gỡ nổi... Trí, Trí, cái trí thông minh đã lừa gạt, xô đẩy. Trí tưởng tượng đã quyến rũ. Mày đang điên, đúng, mày đang điên, cơn điên sáng suốt, cơn điên tỉnh thức hãi hùng. Như sớm mai thốt nhiên không tiếng động của sự sống, sớm mai trắng tinh rõ ràng nhưng nín lặng tuyệt đối…

 

 

4.

Buổi sáng non, mờ nhạt như mầu trắng của đêm, như vết thương chưa lành, vừa là sự khởi đầu vừa là sự nối tiếp, Thuận thức giấc. Nỗi niềm thao thức bỏ lại trong đêm qua, sớm mai còn mới như ký ức sạch không. Một huyễn hoặc, một hứa hẹn lừa dối. Tôi đã trở dậy nhiều lần trong sớm mai tinh sương, từ trong giấc ngủ mịt mùng vây kín như đường hầm ngỡ chui ra một khoảng quang đãng, mở cửa lẻn ra khỏi nhà, đi trên đường thoát xa những ngày cũ. Nhưng rồi buổi mai tan mau vào ánh nắng; ánh nắng khô khan soi tỏ hình dạng sự vật, nhắc nhở sự kế tiếp của quá khứ và hiện tại, và tôi trở về ngủ vùi, ngược trở lại hầm tối. Dù sao những buổi sáng vẫn là những thời khắc mong ước bắt gặp, với ảo tưởng thoát bỏ được mình trong dĩ vãng, những ý nghĩ, ám ảnh, luôn cả hiện hữu nữa... Tôi đi trên đường xóm, cơn gió thổi đùa trên hoa cỏ cây lá mới, trong những khu vườn im ắng xa dài, ra khỏi xóm làng tới khúc kinh dừa nước mọc khít khao như bức mành, ngồi trên cây cầu gỗ, ngó về phía bưng lầy xa tít; hay tôi đi trong các đường phố còn màu xám trên mặt nhà, vỉa hè rác rưởi, vắng xe cộ, rộng thênh thang; những tiếng động thưa thớt lẩn trốn trong thành phố như cao lớn thêm, tới các khu chợ náo nhiệt mà ngày bắt đầu từ hai ba giờ khuya... Buổi sáng như nỗi quên lãng thoải mái, cũng là lúc bắt đầu dần dần phải nhớ lại (Phải nhớ lại sau khi đêm dài đã nghiền nát sự sống thành kỷ niệm) mai sáng phục hồi cống hiến một cơ hội làm lại tất cả. Làm lại tất cả? Tôi vẫn tự hỏi có được không ? Tôi chỉ còn là một trí tưởng tượng bị trì kéo và hủy hoại bởi chính những ảnh tượng do nó tạo nên. Và những sớm mai như những mê hoặc tuyệt vọng của tưởng tượng. Thuận cũng đã thức dậy trong cái màn sương mê hoặc ấy. Cả Diệp, cả tôi nữa. Chúng tôi mở mắt nhìn buổi sáng chết treo, hấp hối đợi chúng tôi vùi chôn, những buổi sáng không tương lai nên trở thành bất tận và vĩnh cửu. Đó hiện tại miên man.

Tiếng vó ngựa của chiếc thổ mộ chạy ngang hướng về chợ, lăn bánh lọc xọc, ngọn roi mềm nẹt lên mái tôn xe, tiếng chẹt lưỡi trong miệng dỗ dành của người xà ích. Một chiếc xe đò nổ không cho ấm máy. Xa hơn nữa, tiếng rào rào kỳ lạ. Thuận không thể ngồi dậy ngay, một cánh tay ê ẩm vì bị đè nặng trong đêm, trán nhẹ bâng như thỏi gòn bay trong gió, giấc chiêm bao vỡ đọng thành những vũng cảm giác trên thân. Thuận gặp những gì trong giấc ngủ? Tôi được nhìn thấy thế nào trong mộng của Thuận? Tôi là cái bóng đen theo đuổi trên quãng đường vắng vẻ trong buổi chiều thấp vàng như nghệ, những đêm sâu như lũng tối. Thuận hỏi đứa nhỏ hung dữ: tại sao nhiều người yêu tôi làm vậy ? Mỗi một tình yêu như một sợi dây siết chặt lấy cổ tôi... Buông tha cho tôi. Tôi không buông tha, tôi táo bạo đến ngông cuồng, níu lấy vai Thuận. Sự sợ hãi làm cho Thuận yếu mềm như một cành cây gãy, nàng ngồi xuống ghế, mồ hôi vã lấm tấm. Còn tôi, tôi chết sững trong mở cảm xúc rối bung của tôi. “Không.. Trí... Không…” Không, chỉ Thuận, không... Thuận nằm yên trên giường, ngó qua mùng gặp ánh sáng cố che giấu của ngọn đèn trên bàn viết. Hiệp ngồi đó tự bao giờ, phơi tấm lưng trần về phía giường, hí hoáy viết.

– Mấy giờ rồi anh?

– Năm giờ. Còn sớm...

Thuận nhỏm lên, vén mùng, thả chân thõng xuống đất, đưa móng tay trỏ vẽ những đường viển vông vào lưng Hiệp, Hiệp nhột rùng mình, bắp thịt giật co rút. Thuận ghé qua vai Hiệp nhìn vào tờ giấy trên bàn, đọc thấy tên Kim. Kim – cái tên chỉ là một âm vang kêu không. Hiệp viết những gì cho Kim ? Hay Hiệp vẫn còn nằm trên giường, ngủ thanh thản, không hay biết Thuận đã khóc. Thuận xuống sân, trời còn một con trăng muộn lẻ loi không thấy sao, cúi đầu vào trong “phuy” nước lớn. Buổi sáng đó trời xa như đáy giếng sâu vọng lên những tiếng gọi hun hút (tiếng gọi của chính mình cúi đầu ném xuống) tôi nhìn qua cửa sổ thấy như đã sáng bạch. Trên lối đi bước chân nhộn nhạo, người ta tập họp sang châu thành biểu tình, ngoài bến những chiếc đò máy của quân đội nổ ầm ĩ đến rước dân làng. Thuận chỉ nhìn thấy con trăng lẻ loi, nghe vang vọng trên trời những chuyển động của một đám đông đang tụ tập. Nàng nghe tiếng Hiệp từ trên nhà :

– Ra chợ uống cà-phê không em ?

Những ngọn đèn khắp trong nhà bật lên, Thuận ngâm mặt trong chậu nước đầy, nghe lỗ tai lùng bùng và người lơ lửng. Buổi sáng bỗng nhiên hoang vắng lạnh lẽo như biển im lìm lúc mặt trời sắp mọc (phút ấy, hồi ức bị xô đẩy và kỷ niệm bị trấn áp) tiếng thì thào ngoài khơi xa, Hiệp thay xong quần áo, bảo cho Thuần biết anh xuống Sai-gòn có lẽ muộn mới về và sẽ mang về một sự ngạc nhiên cho Thuận. Thuận cười lơ đãng điều gì sẽ làm cho em ngạc nhiên? Nàng chải tóc, hình dung ngay sẽ đến trống trải thờ ơ như bước chân chậm chạp đi quanh. Hiệp muốn kêu Diệp tới cho có người trò chuyện. Thuận nói: Phiền, em ở nhà một mình cũng được.

Ngoài đường, đèn còn sáng cùng với ánh trăng trải mỏng trên lô. Đốm thuốc trên môi Hiệp cháy lập loè. Hai người đi về phía chợ. Tại công trường trước nhà việc thị xã, xe vận tải quân đội đổ xuống dân các quận về họp mít-tinh. Quần áo bà ba đen lẫn lộn với bóng tối, biểu ngữ vải trắng cuốn chập chung quanh gậy. Người ngồi không thành hàng lối ngay trên mặt lộ, trên lề trước hàng ba các cửa tiêm còn đóng, trên các ghế đá, bãi có công viên, lan tràn mập mờ, tiếng kêu gọi la ó inh ỏi. Thuận nắm chặt tay Hiệp, len lỏi giữa đám đông hỗn độn, lòng bàn tay xâm xấp mồ hôi, ngực hồi hộp kinh dị. Bất thình lình mọi người có thể đứng dậy vây kín reo hò và mình bị tràn ngập mất hút. Hàng quán đầu chợ, nơi bến xe, đều đã mở cũng ồn ào, Dầy quán cóc kế cận chỗ xe đò, đèn măng-xông xanh biếc. Tôi đặt chân lên bến từ chuyến đò thứ nhất chỉ có mình tôi và người trèo trên dòng nước thẫm lạnh mênh mông. Trên các góc cao của mặt tiền nhà việc, loa phóng thanh bắt đầu mở ọ ẹ, kêu inh khắp phố như tiếng kèn xe chói ráy. A-lô, a-lô, một hai ba, một hai ba, nghe rõ chưa? A-lô... gió từ sông lùa vào, đầy vào lưng tôi đi tới. Thuận và Hiệp ngồi ngay bàn tròn ngoài hè cùng ông Pháp và một người đàn bà đi chợ, đầu vẫn khăn, co một cẳng trên ghế. Phía trong tiệm đông ních, ánh đèn chiếu trên các mặt gương gắn quanh tường viết chữ kê các thức ăn uống, đầu người lô nhô (các ban hàng, tài xế, lơ xe) chú phở-ky bưng khay giơ cao khỏi đầu len giữa các bàn. Thuận đối diện với ông Pháp, nghe ông nói vẻ chăm chú:

“Công phu tôi mần bao nhiêu năm, thằng đó phá hết... Mang tiền đi cho mấy con điếm, chúng ăn rồi chúng cười cho... Tui nó biết mần ăn gì đâu. Cô coi, hai ba con vợ mà đứa nào tối ngày chỉ ngồi lo bôi móng tay, móng chân không hà. Cỡ đó, một cái trường tới năm cái trường chúng ăn cũng hết. Tôi vô phước mới sanh thẳng con hiếu tử. Nói nó là nó gây gỗ hăm he, tức muốn nổ ruột. Kỳ này là tôi thưa nó, không cha con gì nữa, coi xem nó dám chém tôi không...”

Ông Pháp vẫn có tật nói lớn, tôi ngồi bên quán cóc cách một con đường nhỏ cũng nghe rõ. Chừng như chỉ mình Thuận trông thấy tôi, nàng quay nghiêng về phía Hiệp. Trí óc Hiệp để đâu đâu, anh gắn một nụ cười nửa miệng trên môi. Ông Pháp vừa nói vừa làm cử chỉ nóng nảy bực tức; Hiệp và Thuận yên nghe. Ông không còn làm hiệu trưởng nữa, con ông đòi trường lại, hứa sẽ thanh toán dần hằng tháng món tiền ông bỏ ra xây cất thêm lớp học nhưng hai ba tháng rồi không thấy tiền đâu.

– Nó ăn xài như vua... Nó là ông già tôi chớ không phải là con tôi... Rồi ông coi, hư hết. Chừng đó nó lại kêu ông già này... Tôi buồn lắm ông Hiệp à. Cô tính coi làm cho ai. Ít năm nữa vợ chồng tôi chết còn lại nó chớ ai... Nó bất kể trời đất quỷ thần vào đâu hết... Nó chỉ biết đội đầu mấy con điếm.

Loa phóng thanh mời mọi người tập hợp thành hàng ngũ. Trong các hàng quán kéo ra một ít người hối hả chạy về đám mít-tinh. Chuyến xe đò đầu tiên, khoang sáng thưa khách, nhận kèn rời bến. Thuận ngó Hiệp cầu cứu, Hiệp còn mải nghĩ đến chuyến đi Sài-gòn trong ngày. Anh hãy ở lại hôm nay, tối nay trời có thể mưa lớn anh có thể không về được và không khi nào còn gặp được em nữa. Trên phía nhà việc, buổi mít-tinh đã bắt đầu bằng giọng gay gắt cố ý. Nhiều lần tôi tính đứng lên bỏ xuống Sài-gòn cho sớm, nhưng tôi cứ ngồi nguyên chỗ rình rập Thuận. Mày điên rồi Trí, mày điên rồi Trí. Tôi chỉ có thể nhìn Thuận như thế mãi trong một khoảng cách vời vợi chập chờn và quên hết mọi sự. Điều quan hệ hơn hết tôi quên được cái óc tôi. Cái đầu óc bất cứ lúc nào cũng vận chuyển ầm ĩ như một cái máy chạy không chẳng để làm gì. Đám đông hô khẩu hiệu từng nhịp ào ào. Hoan hô, đả đảo, đả đảo, đả đảo... Âm thanh vang trong bầu không khí nhẹ ban mai có dội vào trong ngực trống rỗng của Thuận ? Cuộc mít-tinh càng tăng vẻ dữ dội, tôi nghe nặng nề hai bên màng tang.

Ánh ngày tỏ dần trên đỉnh những cây cao trên đồi, dãy mái nhà bên kia đường phố như thấp rộng thêm. Xe đò, xe lô năm phút một chuyến đưa bọn học trò và đám dân thầy làm việc dưới Sài-gòn, xe nào cũng chật chỗ, Hiệp và Thuận đã ra đứng bên chuyến xe lô đậu sửa soạn khởi hành, các cửa mở đón khách. Thuận nắm cánh tay Hiệp không nhận được một rung động nào, anh hết yêu em, em chỉ còn là cái bóng ? Em bằng lòng làm cái bóng, nhưng ánh sáng đã tắt... Anh còn nhớ không? Anh còn nhớ... Chị Thuận, không phải mình tôi. Còn những vùng trí tưởng tượng của tôi không tới, không vào được, nó tan thành khói sương, tan thành những âm u... Tôi chỉ biết... Phải chăng tôi muốn chiếm đoạt, muốn xâm nhập vào một thế giới không của tôi để tìm cho đủ những hình bóng có thể của tôi, như Hiệp theo đuổi Kim, theo đuổi Phương ? Hiệp vào trong xe, nghiêng đầu ra cửa hẹn Thuận: Một sự ngạc nhiên cho em. Mắt Thuận nhòa, em cũng dành một ngạc nhiên cho anh. Chuyến xe chở Hiệp phải chạy vòng vào phố hẹp tránh đám mít-tinh, Thuận đứng ngây, mặt nàng hướng về phía tôi, thấp thoáng giữa một đám đông tản mác đi lại như rối. Cuộc mít-tinh sắp vẫn, một số đông đổ về hướng chợ, che khuất Thuận. Tôi đứng dậy.

Thuận lẩn vào phố bên hông chợ, bến xe lôi lambretta thổ mộ, không về nhà, vòng ra bờ sông. Nàng đi trên lối mòn sau hàng cây, tà áo đen phất gió, không ngó lại sau, nàng biết tôi theo dõi một bên đường, Thuận rẽ vào con đường đất nhà Diệp và gặp Diệp vừa ra khỏi cửa tay ôm cặp sách. Họ đứng nói chuyện vài phút, rồi Thuận tiếp tục cuộc đi dạo của nàng. Diệp đi ngược trở lại, chúng tôi ngó thấy nhau nhưng đều làm mặt lạ, quá vài bước Diệp còn liếc xéo tôi. Tôi thản nhiên bước, con đường dốc dần dẫn lên gặp các đám cây kín trên đồi, bước theo niềm dẫn dụ âm thầm, như tiếng lá reo trên cao, buổi sáng bị vây nhốt trong vùng mát mẻ thanh nhã của cây đồi lớn và những công thự của tỉnh. Tôi bước xuống thấp lúc nào không hay, gặp đám biểu tình đang tan và mất hút Thuận.

Thuận gài chặt cửa, gian buồng tối sầm với ánh nắng bắt đầu lên ngoài các cửa đóng. Không còn gì phá rối nữa, Thuận đứng ngơ ngác như buổi đầu tiên đặt chân vào căn nhà lạ ngửi mùi ẩm mốc hoang vắng lâu ngày, buổi ấy Hiệp đứng bên, cửa mở và Thuận vẫn sợ hãi vu vơ. Mái ngói cao lú những tia sáng, những sà ngang đen đủi, những bức tường nhạt phếch màu vôi. Và những ngày sẽ tới... Đôi mắt dữ dội và tuân phục chiếu thẳng vào Thuận như sự hỏi han không ngừng. Chị Thuận. Tại sao chị về đây, ở chỗ này, bên Hiệp, trong cái tỉnh lỵ, trong ngôi nhà quạnh hiu có những người tự hủy hoại ? Đôi mắt như lưỡi gươm bén múa vờn bao bọc, hai bàn tay quơ quào vụng về như con nhện đen lớn rớt khỏi lưới cố bám víu đu đưa trong không. Chị Thuận, chị nói đi, nói đi... Những gì ần giấu sau đời sống phẳng lặng của đôi lứa? Chị có hạnh phúc không? Có gì đâu? Không có gì. Chỉ có tình yêu rỗng không của người đàn bà, tình yêu như nỗi thất bại đau đớn nhất trong đời, Hiệp trở về nằm trong tay như thân cây ruột bị đục ruỗng, mọi ý nghĩ riêng tư đã bị cướp mất. Thuận cười: Hạnh phúc? Hạnh phúc là thói quen. Tôi hiểu đó là tiếng phải biến mất, phải không chị Thuận ?

– Không có gì đâu Trí. Tôi chỉ là người đàn bà như những người đàn bà khác...

Thuận lăn trở qua lại trên giường. Chị nhớ tới dĩ vãng, tưởng tới Hiệp nơi đó và tôi ngoài đâu xa không có mặt. Trong cái nhìn suốt lúc nào cũng tưởng ngó hết được toàn thể sự vật, thực ra chỉ là cảm giác mông lung lừa gạt, rơi trong sương mù kín đặc như cửa sổ đẩy tung ra tôi nhìn thấy thành phố trắng xóa ở dưới. Đó phải là bí mật của Thuận, những điều Lang và Diệp nói, tôi muốn hiểu? Hay còn gì khác hơn nữa ? Chị Thuận, Chị nghe rõ tiếng kêu lạc giọng ấy qua những ngày trống rỗng, cái tên của chị được ném trả chụp xuống chị như sợi thòng lọng quấn chặt. Cái tên đó chứa đựng một đời sống khác cùng với những tiếng kêu của tôi có vang ngân trong Thuận như trong tôi, thầm kín nhẹ nhàng như bước chân của kẻ rình mò ? Mãi mãi tôi cũng không giải rõ nổi.

Buổi sáng qua đi lúc nào Thuận không hay, gian nhà càng thêm yên tĩnh khuất nẻo. Thuận thiếp trong sự chờ đợi, sự chờ đợi vẫn như một dòng miên man của đời chị, đợi buổi chiều, đợi buổi tối, đợi đêm giữa đồ đạc và những ảnh tượng phóng ra bay lượn rơi rụng chập chờn trong không trung. Trí ơi, Trí. Tôi chỉ là người đàn bà, người đàn bà yêu một người và bị hút trống hết đời mình. Tôi không còn cả Định Mệnh nữa.

– Chị Thuận, em muốn nói với chị.

– Không... Trí... Không thể. Để tôi nói cho Trí nghe. Tôi nói cho nghe. Hạnh phúc là một thói quen, sinh ra từ thói quen. Tôi hạnh phúc, tôi quen làm một cái bóng, tôi không muốn hiện hình ngoài thói quen... Trí thấy không? Diệp yêu Trí. Trí còn trẻ...

– Không... Chị Thuận... Em...

– Cám ơn Trí... Tôi hiểu Trí. Trí không nói, tôi cũng hiểu...

Thuận khóc vô tình trong giấc ngủ, ngực chị bị đè nặng như có một bàn tay xa lạ đặt trên. Bàn tay như nỗi chết cứng trơ, trong cơn hoảng hốt chị cũng nhìn thấy như thế chăng ? Không thức dậy. Thuận cũng biết buổi trưa đang cháy rực bên ngoài, buổi mai non mờ nhạt đã mất hẳn như mặt hồ mênh mông tưởng vọng mời chị soi mặt nhìn ngắm bóng mình. Thuận cũng hỏi : tại sao, tại sao vậy ? Hiệp, anh còn yêu em không? Thực sự tình yêu như thế nào ? Anh đang ở đâu ? Anh muốn đưa em tới chốn nào ? Có thật tình yêu là sự tàn nhẫn thô bạo và lạc lõng như đôi mắt kiếm tìm chúng ta trong những buổi chiều ? Thuận bải hoải tuyệt vọng. Chị trông chừng tiếng động ngoài cửa. Không hiểu sao buổi sáng lại bảo Diệp : Chiều đến chơi, ăn cơm. Không có ai ở nhà. Buổi sáng nào ? Có thật chỉ mới mấy giờ qua không ?

Thuận tê dại như bị chôn đứng khi hai bàn tay đặt trên vai chị. Lúc nào? Trong giấc mộng của tôi hay của chị? Hay trong một buổi chiều ? Tôi không thể nhớ. Thuận lúc lắc thân mình muốn gỡ thoát, chị nghe rõ tiếng kêu của tôi: Chị Thuận. Lúc đó, lúc đó... phải chính lúc đó... tôi có những ý nghĩ không hình thù man rợ và chị nhìn rõ chúng lần chạy trên sắc mặt của tôi. Chị gọi yếu ớt: Trí, em điên rồi. Phải, tôi điên, tôi điên thật nhưng tôi không muốn tỉnh nữa. Chị Thuận, chị là cơn điên của Trí, cơn điên tôi muốn lao đầu vào, ở đó ngày và đêm díu liền không phân biệt, vòm xa tít tắp của một đời hoang trống. Có phải tình yêu đó không ?

Lang ngồi một mình ngơ ngẩn trong quán nước vắng tối, trên con đường vòng hẹp. (Căn phố nằm lọt giữa những phố không buôn bán, tấm bảng hiệu cũ mang một tên lạ tại Âu Cơ) râu không cạo, mắt đục lờ, tóc tai bờm xờm, bộ quần áo ngủ nhầu nát, mặt bệu xanh mét như sắp sửa tan chảy. Hắn nhìn ra ngoài, trước bàn trống, trong quán không còn ai khác, trông giống một người gác-gian coi kho hàng vào những giờ sáng sớm.

– Ngủ được chút nào không ?

Hắn lắc đầu, từ người hắn tỏa ra thứ hơi nồng hôi hám của bệnh hoạn. Chứng bệnh kỳ cục, hắn không ngủ được đã gần tháng nay, thiêu hủy con người thường nhật của Lang. Sự đau khổ khoác cho hắn một bộ dạng của kẻ vượt ngoài đời sống vây quanh. Hắn ngó tôi lơ láo như nhận một chiếc bóng mập mờ, giọng nói yếu ớt phều phào thảm hại. Bỗng nhiên buổi sáng ấy, hắn nghe khoẻ hơn và rời chiếc ghế xích đu hắn vẫn nằm bỏ ra chợ uống cà-phê từ hồi bốn, năm giờ sáng “Có lẽ sắp ngủ lại được”. Mi mắt khép xuống thận trọng, trên mặt không còn nét động như một cái xác chết ngồi. Những ngón tay từ từ nhích xòe trên mặt bàn. Hắn thấy những gì khi chơi vơi trong những đêm tối mông mênh hun hút? Những gì ngoài cơn bệnh hành hạ, ngoài Kim Huê? Hắn thở dè dặt như tiết kiệm khí lực. Mấy bữa trước tôi tới thăm, kẹt mưa ở lại suốt đêm bên hắn và cũng thức trắng. Hắn nằm xuôi tay, trên bụng đắp chiếc chăn mỏng, đầu ngửa nhìn những rui kèo trên mái. Cửa ra vào hé mở, ngoài sân cây kiểng hàng giậu lay động trong cơn giông trước mưa. Hắn nằm trơ trọi xa cách mọi người trong gia đình với nỗi giày vò thể xác: nỗi đau đớn riêng trong tâm như một kẻ khác thường không người hiểu thấu. Có lẽ đó lần thứ nhất trong đời hắn sống cô đơn, đối diện với chính mình, tôi thấy gần gũi phần nào với hắn. Trong nhà, ngoài ngõ dần dần êm tĩnh, tiếng hát ru lố lăng của đứa em gái mới lớn của Lang đã bặt. Khúc hát bình dân tình tứ sướt mướt. Đám muỗi vo ve trong không khí, bâu quanh mặt cũng tản mất. Trận mưa đổ xuống dữ tợn trên mái ngói, tạt đập vào vách ván, Lang nói thầm thì lẫn lộn với tiếng mưa gió và những khoảng im lặng róc rách khi mưa ngớt. Tôi ngồi trên chiếc ghế cứng không chịu đi nằm, các bắp thịt tê mỏi nhiều lúc bị vọp bẻ, ngủ những giấc thấp thoáng. “Mối tình đầu, không ai quên đặng mối tình đầu. Anh hiểu chớ... tôi hiểu vợ tôi. Tôi thương nó, tôi tha thứ. Người ta hiểu lầm Kim Huê”. Cả tỉnh đều hay Kim Huê bỏ theo tên Thiếu úy ...(2 chữ)... ngày trước, xuống tuốt đâu dưới miệt Sóc-trăng. Bác sĩ biểu tim bự quá, làm hết cách mà không thể ngủ được, lơ mơ vài phút là mắt mở hồi nào không hay, không có triệu chứng gì hết, má tôi xin bùa ếm của ông thầy bên Tân-uyên cũng không linh nghiệm. Có lẽ chỉ có Kim Huê chữa nổi. Tội nghiệp Kim Huê, “tôi thương nó, nó không hiểu, ai cũng ghét bỏ nó. Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, nghìn năm chưa dễ đã ai quên”. Lang cười. Tôi nhướng mắt nghi ngờ lỗ tai của tôi “Cũng như tôi, tôi đã yêu Kim Huê là người đầu tiên” Mais hélas ! lorsque l'âge vous glace, nos beaux jours ne reviennent jamais. Jamais... jamais. Tôi lắng nghe thương hại, thấy mình cũng trở nên lố bịch. Con người là một cái gì phải vượt qua, tôi vụt hiểu, điều đầu tiên phải vượt là một sinh vật nhớp nhúa tình cảm và đam mê. Tình cảm như món trang sức của kẻ thất bại và đam mê vô ích, Tôi như được soi sáng về mình, về sự vật và kiếp sống này. (Không phải, không phải thế.), những ý nghĩa tích cực của nó tôi càng mù mờ. Tôi, tôi cũng là kẻ mở mắt trong những đêm tối quá dài của tôi. Không thể nói không trống trơn, nhưng cũng không thể trở lui.

Tôi đã tìm tới dưới, Kim Huê không muốn gặp tôi, tôi đón nàng ở chợ. Kim Huê nói : anh về đi. Nó bị thằng đó lợi dụng. Kim Huê không hay. Đàn bà ngây thơ dễ tin, dễ gạt... Trông Kim Huê ốm. Có lẽ bị nó bỏ ngải. Tôi nói: nếu em không về tôi sẽ đi kiếm nó, đâm chết nó rồi ở tù, tôi đủ can đảm mà. Tôi không nói giỡn, Kim Huê năn nỉ biểu tôi về trước, nàng sẽ liệu cách về sau. Nàng sợ thằng đó. Bây giờ nó làm Trung úy.

. (10 dòng).

Tôi nói thiệt mà. Anh phải coi chừng Diệp. Tôi xuống dưới mấy bữa, khám phá chuyện động trời. Thằng cha Hiệp hồi trước dạy học dưới đó. Vợ thằng cha bây giờ là của bạn thân thẳng chả. Cha ở đậu nhà, bạn bị bắt, cha mang vợ người ta dông tuốt luốt, nên mới trốn ở trên này. Tôi nghe chuyện mà không ngờ ...(6 chữ)... trông bề ngoài ai không tin. Bạn thằng cha tên là... gì ? Tôi quên mất... Ở.. Tôi nhớ mà, tôi nhớ rõ mà... “Tôi không thể rõ chuyện thực hay giả.” Có thể trong cơn giận dữ bệnh hoạn, Lang đã tưởng tượng. Nói xong, Lang ngả nằm, chân ghế đung đưa nghiến trên gạch. Chừng hai ba giờ khuya. Trong nhà chiếc đồng hồ treo gõ lên một điệu du dương. Mưa ngừng một khoảng và trời bốc lạnh. Ngoài sân trước chỉ thấy những bóng cây kiểng sẫm hơn trong tối. Tôi bỏ mặc trí tưởng tượng bay lạc trong thành phố co rút nhỏ bé và xa xôi hơn tới trước nhà Diệp và Thuận. Những tiếng động thầm thầm, những ngọn điện cháy dưng không. Phố đã thật xa con sông lớn với tay chân của nó vây riết làng xóm thâm u. Tôi ngồi đây trước người bệnh và biết đời mình không ở đâu cả. Diệp sẽ lấy chồng trong một ngày tới. Và tôi... Thuận nằm trong gian nhà kin, gian nhà hoang vu kín mít như một vùng rừng tối. Có thật thế chăng ? Có thật Thuận là...? Khuôn mặt lặng lẽ thâm nghiêm của lầm lẫn và hối hận. Không cười cợt như chị Lệ. Vẻ chuếnh choáng đảo điên giả dối của Hiệp. Trước Phương, trong quán rượu khuya mưa tạt ướt hết các mặt bàn, một buổi tối khác nữa, Hiệp rủ tôi tới hát nghêu ngao một bài tình ca cũ rích. Cái gì hỗn độn bất nhất quay cuồng một cách vô lý mà trí tưởng không bắt kịp, những gì đang ghì trói lấy thân thể. Không phải thế, tôi chỉ biết không phải. Không, Không...

“Tôi tin Kim Huê sẽ trở về. Tôi thương vợ tôi, tôi tha thứ cho nó, ai muốn nói gì cứ nói. Tôi không sống xa Kim Huê được…” Hắn không im được ; hắn phải nói tới. Hắn không còn gìn giữ, hắn kể đến cả những chuyện thầm kín giữa vợ chồng. Trong ánh xanh lu của ngọn điện gắn sau lưng, Lang bắt người đàn bà xuất hiện ...(2 chữ)... Cánh tay dài trắng, cặp giò quấn quýt, môi cong cớn dữ dội, tóc tai nhờn ướt, và những lời thủ thỉ, những giọt nước mắt cùng hơi thở trong lưỡi ngọt như mía.

“Nàng còn trinh khi về làm vợ tôi, chỉ có tôi chứng nhận được cho nàng. Người ta ngờ oan... Tội nghiệp Kim Huê. Anh tin không? Tin Kim Huê sẽ về”. Mưa trút ào xuống. Tôi lần mò tới bàn rót hai ly nước cho Lang và cho tôi. Nước nguội lạnh. Lang nuốt ừng ực như một người bị thương. Gió thổi tạt những hạt nước nhỏ tới mặt tôi. Tôi hỏi: bác sĩ bảo tim bự có cách nào làm cho nhỏ bớt Không có cách nào... Không, tôi không tin là “Anh đi đường anh tôi đường tôi, tình nghĩa đôi ta  có thế thôi”. Tôi tưởng hắn sắp ca vọng cổ, hồi còn đi  học, hắn chơi măng-do-lin và lên hát vào những dip bãi trường. Kim Huệ sẽ về với hắn. Rồi còn gì nữa? Sự hiện hữu đơn thuần vô cớ là một giá trị sao? Chưa đủ, không đủ. Tất cả với hắn chi là Kim Huệ. Có lẽ Kim Huệ về tôi sẽ khỏi. Nếu tôi biết tôi sắp chết trước khi đó tôi phải tìm giết nàng, nếu nàng không trở về. Buổi sáng báo hiệu bằng động cơ xe rồ lên trong một ngõ gần. Tiếng máy rú đại lên từng hồi rồi bắt. Trời vẫn không thấy sau lưới mưa động. Hơi thở Lang phì phò. Ảnh thức cũng hay. Buồn ngủ không? Đầu tôi bây giờ rỗng không như cái nồi mà mặt thì lúc nặng lúc nhẹ. Tay chân liệt hết trọi. Chỉ có cặp mắt thao láo không biết mỏi Trận mưa vẫn làm đặc bóng tối nhưng không khí nghe đã nhẹ loãng. Mưa còn lâu, buổi mai còn xa khuất. Tôi lắng nghe, muốn tìm tiếng chân ngựa gỗ trên đường nhựa, Không thấy. Nếu đêm bất tận? Thuận và Diệp vẫn say ngủ, tôi thức ở đây, miệng đắng mặt mũi nặng nề. Mệt mà không xỉu được. Có khi xỉu lại ngủ được không chứng, Kim Huê sợ trời mưa hết chỗ nói. Nàng không thể buông rời tôi. Nàng chỉ có thể ngủ được trong tay tôi. Nàng còn ngây thơ quá. Người ngoài làm sao hay mấy chuyện đó. Tôi chóng mặt, nghe chừng có thể té khỏi ghế vào giấc ngủ đắm đuối. Người nôn nao quá chừng và bốc ra hơi nồng. Một lúc tiếng máy xe hơi rồ lên từng chập, lẫn dần vào trong tiếng mưa đồ không ngớt. Xe đò đã thức dậy, nhưng chưa chạy ra bến và các ngõ quanh đấy rèn tiếng động cơ. Tôi gắng định thần đứng lên, bước ra ngoài thèm hít những hơi gió lạnh. Trời xám bệch như nước da của Lang. Rồi tôi làm gì sau đây? Bắt đầu một ngày. Những ngày không hẹn hò nổi tiếp. Đi đến với Diệp, đi đến với Thuận, với Hiệp. Nhưng tới chỗ nào? Buổi mai nào cũng là một ảo tưởng. Trong ánh sáng nhọ nhem, mặt Lang trắng xanh như không còn một giọt máu, mắt nhắm khít thiều não. Tôi mong cho hắn thoát khỏi bệnh trạng, trở lại đời sống quen thuộc của hắn với Kim Huê và với tất cả những gì hắn đã thâu đoạt được.

Chúng tôi vẫn đối diện trong tiệm sâu, nhìn qua vai Lang vào trong tối không thấy bóng người. Bên kia đường là hông của bệnh viện với hàng rào gach, trong hàng rào mấy cây điệp không còn bông. Lang vụt mở choàng mắt, mắt hắn bỗng trở nên linh động hơn. Hắn đứng mau dây, loạng choạng một chút rồi bước thẳng ra cửa. Có lẽ hắn nhìn thấy giấc ngủ đang trở lại. Tôi chỉ xoay mình trên ghế ngó theo. Còn lại một mình, như bị gài bẫy, tôi không rời được chỗ. Tôi gõ lên mặt bàn kêu gọi. Từ ngoài cửa một người đàn ông bước vô. Thoáng trông tôi nhận ra ngay đó là người từ hơi xa đến. Ông ta ngập ngừng vài giây, bước thẳng vào chỗ quầy. Chiếc áo sơ-mi trắng nhầu phía sau lưng và thấm những đường mồ hôi. Đừng giây lát không thấy ai, ông ta quay về phía tôi hỏi :

– Không có ai nhỉ ?

Giọng trọ trẹ khó nghe. Tôi đáp cũng là khách rồi đứng dậy bỏ ngay ra ngoài, sợ người lạ đuổi theo bắt chuyện. Lố bịch, bây giờ mày sẽ làm gì đây. Tri ? Không biết phải làm gì, thật buồn.

 

 

Phương lấp mặt sau bình lay-ơn tím đỏ, nhìn tập giấy tính tiền. Không có khách trong quán. Bãi cỏ xanh non ngoài vườn bông nằm giữa những con đường vòng giao nhau khăng khít. Những chuyến đò máy qua Thủ thiêm, vắng vẻ trong giờ làm việc. Ánh nắng nhấp nháy trên thân tàu xám. Người đàn ông phụ việc đã xếp đặt bàn ghế lau chùi mặt quầy sạch sẽ, mở các cửa xếp, ngồi trong chiếc ghế mây ngoài hè đón xe nước đá. Chị đàn bà trong bếp đã rửa sạch ly tách xếp phơi trên kệ bên chân thang, Những dấu tích của đêm qua sạch trơn. Chỉ còn tôi, tôi và quán rượu này là dấu tích của những đêm trống rỗng đã qua. Phương có nghĩ vậy không? Phương không nghĩ, thủng thẳng vào chỗ của mình. Bà chủ quán chưa dậy nổi. Tên đàn ông chải chuốt lái chiếc xe thể thao mui trần màu đỏ tới lúc mười giờ. Hắn vừa đứng đánh bi điện nhún nhây, uống nước chanh, vừa tán tỉnh Phương công khai, tôi đã được chứng kiến cảnh ấy. Phương đối đáp với hắn, cười cợt thản nhiên, coi như trong quán không người. Phương khoe: Hắn đòi bao em, không hiểu hẳn làm nghề ngỗng gì mà giàu ghê. Ăn chơi tối ngày. Chắc chắn Phương cũng mang câu chuyện ấy nói với Hiệp, bằng giọng khiêu khích. Một lát sau tên đàn ông bỏ đi, đến cửa hắn còn quay hẹn Phương một bữa ăn tối. Phương từ chối. Nàng hẹn với Hiệp. Đám thanh niên nhàn rỗi kéo tới, Phương thuộc mặt biết tên gần hết. Chúng vây quanh bàn giải trí, thay phiên nhau. Đứa mệt chán ra ngồi bàn hoặc trước quầy. Như thế cho đến trưa, buổi chiều cho đến tối. Phương ngắm nhìn những gương mặt trai trẻ, phỏng đoán nghề nghiệp, tưởng tượng mỗi tâm sự. Chỉ vào những giờ buổi sáng Phương mới có thì giờ quan sát đám khách thường trực này. Chiều tối chúng chiếm riêng biệt một góc, lẫn vào đám khách hỗn tạp thay đổi luôn. Một vài đứa cũng tán tỉnh Phương, tỏ ra si mê, Phương đóng vai ngây thơ trêu cợt. Phương đợi Hiệp, tôi biết Phương trông Hiệp tới. Xưa có một mối tình tưởng bền thiên thu... xưa có bầu trời xanh... Đĩa hát quen quay trong lồng kính. Một kỷ niệm đối với Phương. Kỷ niệm nào đó? Hiệp vào quán bằng cửa nhỏ bên phố hông, tới đứng bên quầy Phương cũng chưa hay. Hiệp khỏ xuống mặt bàn như kêu cửa. Anh nhìn sát đường sống mũi của người đàn bà và những kẽ hằn trên môi thoa một lượt son tím mỏng. Màu son lạ mới như buổi sáng sớm anh vừa từ đấy tới. Ngón tay Thuận vẽ trên lưng anh. Vẻ ngơ ngác của nàng. Đám biểu tình hỗn độn. Cảnh chợ sớm nhìn từ trong tiệm khách trú. Trời ửng sáng trên đồi. Tiếng của ông Pháp oang oang những lời dặn dò của Thuận. Anh nghĩ... Bức thư viết gửi cho Kim. Hiệp viết cho Kim về Phương? Nhưng còn người chồng của Thuận ? Sự im lặng xa cách bí ẩn mà tôi bỗng khám phá được. Có thật đúng như Lang kề ?

Tôi chợt nhớ đến người đàn ông trong quán Âu-cơ. Người đàn ông lạ vừa xuống ở bến xe. Có thể ông ta tìm thăm Hiệp và Thuận. Có thể chính là ông ta ? Người đàn ông hỏi: Tôi có người bạn nghe nói dạy học ở tỉnh này, không biết có đúng không. Ông ta tên là Hiệp. Tôi đáp: Ở đây có ông giáo sư di cư tên là Hiệp, không rõ phải không. Di cư, đúng, người gầy ốm. Sáng nay tôi thấy ông ta đi Sài-gòn rồi. Nhà ông ấy ở đâu ? Ông có thể chỉ giùm tôi. Tôi tự hỏi tôi có đưa người đàn ông lạ mặt đó đến gặp Thuận không ? Tôi có thể vào nhà ngồi nơi ghế nhìn Thuận và người đàn ông, chứng kiến cuộc đối thoại. Họ sẽ không nói được gì với nhau vì sự hiện diện của tôi. Họ chờ tôi đi khỏi nhưng tôi ngồi lì đó. Trời tối dần, đèn bật lên. Hiệp không về. Trận mưa giông, đúng hẹn trút đổ. Chúng tôi như những tên tù canh chừng lẫn nhau. Mặt Thuận yếu xanh dần như tàu lá, nhưng chị không chết, Thuận không chết. Chúng tôi ở đó và cái chết phải đợi. Chúng tôi có thể nói với nhau những câu vu vơ, tôi thay Hiệp tiếp khách. Nhưng tôi đã bỏ chạy, nghe mình nóng nảy, tôi muốn trở về nhà nằm ngủ. Tôi nhớ mấy bữa rồi tôi thiếu ngủ. Cái chết như một giấc ngủ khi ùa đến không cưỡng nổi. Cái chết không chịu đợi. Người đàn ông lạ, tôi không nhớ nổi mặt chỉ còn thấy bóng dáng, từ trong quán ra tìm đến trường hỏi ông Pháp. Ông ta đi lên đi xuống con phố ngắn, lúc đầu bên lề mương cỏ nhìn vơ vần như kẻ nhàn du, rồi lên đứng trên lộ ngó xuống căn nhà, căn nhà đóng kín cửa như không người ở, lại trở xuống lần này đi sát vào các mắt nhà dòm ngó. Ông ta kêu cửa và đợi, không nghe tiếng đáp. Ông ta kêu lần thứ hai, lần thứ ba nữa mới chịu bỏ đi. Sau cửa sổ Thuận đi chân đất rón rén, gan bàn chân giẫm lên những viên gạch âm lạnh, ngó qua khe hở. Có phải người đàn ông ấy? Có thật có người đàn ông ấy? Chỉ còn Hiệp trả lời được nhưng tôi không hy vọng gặp lại Hiệp. Trước và sau tôi chỉ có một mình, một mình với trí tưởng. Nhưng tôi không tin vào trí tưởng của tôi. Tôi điên, điên thật, không chối cãi được. Trí tưởng phiêu lưu trong một thế giới tự do hoàn toàn, mọi sự đều khả hữu nên đều trở thành vô nghĩa, Chỉ nơi đích của cuộc phiêu lưu ấy mới tỏ ngược về những lối đã qua. Đích đó là đâu ? Bây giờ, tôi biết rất rõ cái đích của trí tưởng không ràng buộc.

 

Diệp gõ cửa, tiếng động như không thể nhập vào trong nhà trống. Thuận choàng dậy, nín nghe sự im lặng của giấc ngủ trưa hai bên hàng xóm. Chị xỏ chân vào guốc, bước chuếnh choáng chưa tỉnh hẳn, không bao giờ tỉnh, vào trong bóng mờ của gian nhà ngoài. Chỉ là những ảo giác, những ảo giác hiện thực thành cảm xúc. Hiệp chăng ? Anh trở về trước giờ hẹn. Anh trở về và chỉ anh của thoát được em. Hiệp cũng không làm nổi, không thể làm gì nổi. Anh cũng bị lừa nốt. Mặt bàn phủ khăn trắng, tiếng máy điều hòa không khí. Chiếc cốc nhỏ cắm một bông hồng thẫm, Hiệp cười ngó tấm ảnh cầm trên tay. Đứa nhỏ mặc váy ngắn, ôm con búp-bê đứng cao bằng nó, ngồi trên nền gạch bông bên một chiếc ghế đầu. Đó sự ngạc nhiên Hiệp hứa mang về cho Thuận. Một đứa con. Tội nghiệp đứa nhỏ. Nó không biết gì hết. Nó chỉ là kỷ niệm của một mối tình đã mất, một kỷ niệm Kim vô tình để cho Phương, Phương giữ như dấu tích quá khứ, một dấu tích tô điểm vẻ não nùng cho người đàn bà. Nó chỉ là cái cớ cho Hiệp chạy đuổi theo những ý nghĩ thầm kín, nó sẽ tạo thành mối ràng buộc giả dối. Hiệp trả tấm ảnh và Phương cười ngặt nghẽo, nàng hơi say. Họ ngồi trong phòng bọc kính, như trong một bồn nước nuôi cá. Hiệp nói cà rỡn về cô gái Tàu hầu bàn, kể cho Phương nghe về Hàn Duỳn, buổi tối ở tỉnh nhỏ trước hiên nhà tối với ông già chờ chết và cô gái ẩn hiện chốc lát. Hiệp không nói về Thuận nhưng Phương linh cảm còn một người đàn bà nữa ở đâu đó trong buổi tối giông đèn. Phương nhắc đến buổi đi chơi chợ phiên dọc theo bờ sông buổi chiều, ngồi trong quán nổi trên phiến đá sau nhà thờ và Hiệp trợn mắt dòm nàng. Trong lúc ấy, cánh cửa mở. Diệp nhìn Thuận xanh sao yếu đuối. Chị đau sao ? Thuận lắc đầu, vuốt mái tóc. Không, không sao, tôi hơi chóng mặt. Diệp nắm bàn tay Thuận lạnh giá: Chị đi nằm nghỉ. Không, không cần. Diệp đứng tựa trong khung cửa xuống sân chờ Thuận rửa mặt. Gian buồng trong tĩnh khuất trống trải, mọi vật đều thô sơ không ẩn giấu. Diệp nghĩ mau: chẳng có gì hết, mọi sự đều yên ồn ngăn nắp, người ta có thể sống bình thản. Sự khuấy động là của tưởng tượng, trí tưởng tượng muốn trùm lấp cách biệt nhưng chỉ gây sự chia rẽ, Diệp nhất định bắt Thuận phải nằm lên giường và nàng nhắc ghế ngồi cạnh. Diệp bỗng nhận xét : Chị không ăn gì sao? Thuận lập lại: Tôi mệt, làm biếng quá. Diệp hỏi: Chị ăn gì để em mua? Thuận từ chối, nhưng Diệp không chịu: Em đi mua bánh mì cho chị. Thuận nằm lại trên giường, nghe cánh cửa ngoài hé mở. Tôi phải đóng cửa lại, người ta có thể đi thẳng vào tới đây, sẽ không mở cho Diệp nữa, nhưng tôi đuối sức. Diệp sẽ trở lại, tôi sợ phải đối đầu với Diệp. Diệp sẽ lại hỏi: Chị thấy Trí thế nào ? Và tôi không còn dám trả lời: Trí được, Trí ngoan lắm. Tôi phải ngồi dậy đóng cửa, không thể... Trí thế nào ? Tôi sợ cặp mắt dữ dằn muốn soi thấu những bí ẩn. Thuận xoay trở trên gối như người bị trói liệt bởi những ám ảnh. Thuận nghe tiếng chân bước vào nhà và chị nằm yên nín thở không lên tiếng, Tôi bước qua ngưỡng cửa, đứng im nghe ngóng động tĩnh một hồi, như không có ai trong nhà. Tôi ngồi ghế nhìn chiếc bàn máy kín nắp, gỗ đen bóng. Bỗng dưng tôi cất tiếng gọi khẽ:

– Chị Thuận.

Không một tiếng động đáp lời, tôi đành ngồi im. Không biết bao nhiêu lâu, tôi bỏ quên mình như một cục đá trong giấc ngủ mở mắt. Chẳng có gì ngăn cản tôi bước vào buồng trong. Thuận có thức cũng nhắm mắt giả bộ ngủ say. Tôi nói như nói một mình, Thuận nghe hết không sót một lời. Nhưng tôi sẽ nói gì ? Tôi sẽ nói gì ? Diệp hấp tấp bước vào, bất ngờ trông thấy tôi, đứng khựng giữa lối, hỏi mau :

– Chị Thuận đâu ?

– Không thấy. Anh ngồi đây có cả giờ không thấy ai. Cửa ngoài mở...

Diệp bỏ mặc tôi, vô buồng trong. Tôi nghe tiếng Diệp kêu Thuận, có lẽ Thuận quay mặt trong vách. Tôi lắng nghe cuộc đối đáp giữa hai người, tôi thực nghe thấy hay tôi tưởng tôi nghe thấy? Thuận hỏi khẽ: Ai ở ngoài thế? Diệp hỏi: Chị không biết sao? Trí. Không phải hai người nhắc đến tôi, lúc ấy tôi không còn là Trí, tôi ở ngoài thân tôi, tôi nghe rõ tiếng thở và tiếng đập trong tim. Tại sao im lìm? Hai người không nói gì thêm, họ nhìn nhau ? Một người nằm và một người đứng. Còn tôi, tôi không thể vượt qua bức màn che ngăn hai buồng. Bỗng tiếng Diệp: Chị nên uống thuốc. Hay để em cạo gió. Thuận từ chối, chị bảo Diệp ra ngoài với tôi; chị vẫn thường nằm buồng trong, cho phép chúng tôi trò chuyện ở ngoài. Diệp cười rõ ràng: Chúng em chẳng có chuyện gì gấp hết. Tự ý anh ấy tới, em đâu có hẹn... Tôi tựa vào lưng ghế, ngửa hẳn cổ ra sau, nhìn mọi vật đảo ngược. Tôi muốn bóp cổ Diệp cho nàng nín tiếng, Thuận thở dài : Thế à... Diệp trở ra, đuổi tôi bằng giọng âu yếm: chị Thuận đau, để em ở đây với chị, tối anh gặp em... Tôi không tỏ thái độ, không nói một lời, đứng dậy chui ra khỏi cơn ủ ê, Diệp theo chân. Đến cửa, vẫn thấy tôi không nói gì, Diệp phải hẹn : Ở sau nhà thờ nghe anh. Tôi lập lại: sau nhà thờ, một cách lửng lơ không quyết định.

Tôi không nhớ tôi đã đi qua hết buổi chiều hôm ấy như thế nào. Những trận mưa cắt nhỏ quãng thời gian trong châu thành quanh quẩn mấy đường phố ngắn. Nơi này tôi lớn lên xa lạ với mọi người; nơi này tôi dời bỏ không lưu luyến. Tôi nghe tưởng mình đã thoát xa hẳn lúc ấy trở về không nhận dạng nổi mình qua sự vật. Tôi đứng dưới mái hiên phố chợ, ngó cảnh đường buồn tẻ trong màn mưa xám. Má tôi, chị tôi ở bên kia sông, trong những đêm khuya đồng ruộng phẳng lì đang nghĩ đến tôi. Chiều bữa trước trong bữa cơm tôi nói với má tôi, cố sức dịu dàng : tôi bỏ học đi mần. Má tôi hỏi: tính mần sở nào. Tôi không biết, nhưng đáp tôi tính xuống luôn Sài-gòn, đi về mất công. Má tôi cúi mặt xuống chén cơm hiểu ẩn ý của tôi. Chị Lệ ngậm miệng không bàn góp một lời. Tôi phải tự thay đổi, ném mình ra khỏi khung cảnh cũ mèm như ám ảnh, những ngày tháng lúng túng vòng quanh của trí tưởng mù mờ. Tôi phải thay đổi đời tôi, Mưa ngớt, tôi ra ngồi ăn mì ở đầu chợ, đợi giờ hẹn với Diệp. Tôi nghĩ cũng nên từ biệt Diệp, từ biệt Diệp như chia tay với quá khứ, khép lại một cánh cửa không dẫn tới chốn mong ước. Tôi phải đi một mình, một mình thôi. Diệp ở lại trong châu thành, ở lại những ngày làm sẵn xếp chồng trước mặt.

 

Cơn mưa cuồng dữ đổ xuống cùng buổi tối. Tôi nép trong một khoảng hở bên vách tường nhà thờ. Nước chảy ồ ạt dưới đường thấp, khoảng đất cỏ lẫn với sỏi cất nhà thờ tưởng có thể bị sụp lở. Cây cối va đập một mùng. Tôi bị vây giữa đám mưa, không thể ra thoát tìm nơi trú kín hơn. Quần áo ướt mem, da thịt bắt đầu gai lạnh. Tôi nghĩ Diệp không đến. Không ai ra khỏi nhà lúc này, người ta đóng chặt các cửa quây quần bên nhau, Vùng hạnh phúc lạnh nhạt hằng ngày phút chốc nồng ấm hẳn. Diệp thảnh thơi dưới ánh sáng yên tĩnh. Tôi ở ngoài thế giới hạnh phúc. Giờ này gian nhà tôi ẩm ướt lạnh lẽo, nước ngập tràn ngoài vườn dầy, ánh đèn hiu hắt lung lay với ba bóng người trốn vào các góc kẹt không tìm thấy lời trao đổi. Chị Lệ cất tiếng ru, giọng hát của chị lơ lớ pha trộn điệu cải cách. Thuận vẫn còn nằm trên giường, nghe gió lộng bên vườn chuối... Chị im lặng, im lặng mãi. Hiệp không về, anh sập bẫy của Phương hay của chính anh ? Phương cười như nắc nẻ: Anh không về được nữa, chẳng có đứa con nào hết, nó chết rồi... Hiệp ngơ ngẩn đi lại trên căn gác gỗ trong ngõ hẹp tối. Tai sao không phải là anh yêu em? Kim, anh sợ gì Kim. Em không sợ thì thôi chứ. Phương sai Hiệp, đóng các cửa nhốt hai người lại. Hiệp không mang sự ngạc nhiên nào về cho Thuận cả. Và Hiệp bật lên cười. Không làm gì hết, không nói gì hết, không cưỡng chống lại. Xuôi tay tự nhiên, thái độ vô vị đích thực của Lão Tử, đã có lần Hiệp biện giải như thế. Hiệp bỏ trống mình như bỏ trống mọi người, không có gì đáng quan hệ cả. Thuận phải sống cuộc đời của nàng cũng như Phương. Cái chết cũng là một lôi cuốn, Hiệp bỏ mặc Thuận cưỡng chống đơn độc. Em tự do, hoàn toàn tự do, nhưng em khiếp sợ. Anh có những nguyên tắc khiến anh bất lực. Đột nhiên lúc ấy tôi muốn gào lên một tiếng man rợ, nhưng tôi nghe rõ sự cồn cào từ ngực vụt tắt ngấm khi dâng đến cổ...

Nhưng Diệp đến, ướt lướt thướt trong áo choàng, Diệp đã đến ngoài sức tưởng tượng của tôi. Nàng leo lên theo con đường mòn sau lưng nhà thờ, đứng ngơ ngần giữa quãng trống. Tôi bỏ chỗ ẩn, chạy băng đón Diệp và chúng tôi dắt tay chạy trốn vào dưới mái hiên sau nhà chung. Chúng tôi ngập trong bóng tối rung chuyển vì gió, ôm giữ chặt nhau không muốn rời. Diệp, Diệp... Tôi không biết làm gì hơn là gọi mãi tên Diệp. Và Diệp chùi mặt vào trong ngực tôi, lên mặt tôi, khuôn mặt ướt đẫm lạnh giá. Khi ngậm lấy môi Diệp, tôi nghe vị mặn của nước mắt lẫn lộn với nước mưa. Tôi không hỏi một lời nào, tôi cũng bỏ mặc Diệp. Diệp đã đến, tôi biết và quyết định ngay chúng tôi bắt đầu một cuộc phiêu lưu tới cùng không ngờ Diệp đã khởi sự trước, Diệp nói:

– Mốt đám hỏi em. Em sẽ bỏ trốn. Em quyết định rồi.

– Tôi hỏi : “bao giờ?” Diệp đáp : “sáng mai, không thể chậm được. Bây giờ em phải về nhà, từ chiều em chưa về nhà.”

Diệp nói không nghỉ về sự xếp đặt của nàng, trong chương trình của Diệp chỉ có cuộc bỏ trốn không có nơi đến và những dự tính tương lai. Tôi đứng im, nhìn đôi mắt lấp lánh của Diệp trong bóng mờ như hai chấm sáng nhỏ thật xa vời; một thoáng loé lên sự hoài nghi nhưng tắt ngay theo niềm say sưa liều lĩnh. Tôi không ngờ, không thể nào ngờ tới... Có lẽ chính lúc bấy giờ Thuận uống những viên thuốc ngủ. Ly nước nguội lạnh như không khí nghe rõ trôi dần qua cuống họng lan khắp ngực và ruột, Viên thuốc đôi lúc vướng trong cổ xông lên muốn làm ói, Thuận xuôi tay chờ đợi. Chỉ một lúc vật vã thôi rồi hết. Hết những nín lặng, hết những thù nghịch, những ám ảnh. Anh về vẫn còn kịp nhưng anh không về. Thuận thấy rõ mọi sự trong một màn trắng mờ ảo. Đèn không thắp và mưa tràn ngập tứ bề. Thuận nghe tiếng chân tôi bước xuống hè, tiếng cửa đóng, Diệp quay vào. Diệp ngồi bên cạnh giường, đưa ổ bánh mì, Thuận từ chối. Diệp nói: “Em muốn hỏi ý kiến chị. Chúng em định đi trốn.” Tại sao lại hỏi tôi ? Chuyện ấy không quan hệ đến tôi ? Tôi không thể nói như thế. Tôi không thể can ngăn, cũng không thể khuyên nhủ. Mỗi lời nói của tôi đều là một bản án với tôi. Nhưng cả sự im lặng này nữa, sự im lặng cũng lây nhiễm tội lỗi. Thuận chỉ có thể nói: Tôi mệt lắm, tôi có những chuyện của tôi cũng không giải quyết nổi. Tôi mệt lắm. Nếu Hiệp ở đấy, tôi không bỏ đi... Diệp ép Thuận uống thuốc, vị thuốc chua ngắt. Cơn nhức đầu mệt mỏi không bớt.

– Tôi biết là cô yêu anh Hiệp và cô nghi ngờ Trí...

Diệp xanh xám mặt mày, tay run rẩy nghẹn ngào. Tôi, cũng như Diệp, tôi cũng sợ mất Hiệp - Hiệp không là của ai hết, chỉ vì tôi đã lầm và tôi phải gánh chịu – Nhưng lời nói đã làm xuất hiện những sự thực không bỏ được. Tội nghiệp Diệp. Thuận ngó Diệp như ngó đứa em gái của mình. Môi Diệp mím lại, mắt rắn đanh, mắt ngó sững không chớp. Thuận nhắm mắt lúc lâu. Buổi chiều thì thầm bên ngoài trong cơn mưa thoáng. Không ai nói thêm một lời. Diệp nghĩ đến tôi, thành hình dần trong đầu chuyến đi của chúng tôi. Lát sau Thuận hé mắt hỏi: Cô chưa về? Tôi không ngủ được. Hay cô mua giùm tôi ống thuốc ngủ.

– Chị không nên dùng thuốc ngủ. Hại sức khỏe.

– Tôi dùng quen rồi mà.

Diệp lại bỏ ngỏ cửa ra phố, đi như chạy cho kịp, mang về ống thuốc.

– Nhờ quen họ mới bán. Chị hứa với em là chị không được tự tử.

Thuận mỉm cười, lắc đầu. Diệp quanh quần, tránh mắt Thuận, mưa trút đổ và Thuận bảo : Cô không về được rồi.

– Em về để cho chị nằm nghỉ. Chị cần gì nữa không?

– Cô cho tôi xin chai nước lọc.

– Chị hứa với em là chị không làm bậy. Em có hẹn với Trí. Sợ bắt anh ấy đợi lâu. Mưa ướt hết.

– Em có áo mưa. Em còn phải về nhà thu xếp công chuyện.

Diệp mặc áo mưa, đứng giữa buồng. Thuận bảo:

– Cô đóng giùm các cửa không mưa tạt.

Diệp đóng mọi cửa sau trước, rồi mới ra nhà ngoài. Gian nhà dài rộng sâu hơn; Diệp đứng thở ngoài buồng khách.

– Chị cần gì nữa không?

– Cám ơn cô. Cô lấy cái ống khóa trên bàn, lúc ra cô làm ơn khóa trái ở ngoài rồi ném chìa cho tôi. Anh Hiệp về có chìa khóa riêng.

– Chị Thuận...

Thuận ngửa nhìn Diệp. Không phải lỗi tại tôi, cũng không phải tại Diệp.

– Tôi xin lỗi Diệp

Chi Thuận, chi hứa với em là không làm bậy.

– Không. Diệp đừng nghĩ ngợi gì cả.

Diệp ném chiếc chìa khóa qua khe cửa, không nghe tiếng rơi. Nàng bỏ chạy đến với tôi, qua cơn mưa lũ bỏ Thuận một mình. Lúc mưa tạnh ngớt, trên đường phố khuya vắng, Diệp nép vào người tôi, run rẩy. Anh hứa mai anh sẽ tới, anh đừng bỏ em. Anh bỏ em bây giờ em chết mất, em không thể sống nổi. Tôi chỉ nghĩ đến Thuận, Hiệp không về và Thuận đau ốm nằm liệt trên giường, Đợi Diệp vào nhà, tôi chạy mau trên các phố dốc. Tôi nghe tiếng giày giẫm lép nhép trên đường ướt, chiếc bóng lúc ẩn lúc hiện trước mắt. Trời đổ mưa đúng lúc tôi đến trước nhà Thuận. Tôi nép vào tường thở dốc một hồi, bên trong không một tiếng động khẽ. Tôi không hiểu gì hết, gõ lên cửa. Cơn giông khua át hết tiếng động, toàn thân tôi ướt lạnh. Tôi ghé miệng vào khe cửa kêu : chị Thuận, chị Thuận, mở cửa cho em... càng lúc càng kêu lớn như muốn át tiếng giông gió ngoài trời. Chị Thuận, chị Thuận, Trí đây... Tôi động lay các cánh cửa mỗi lúc mạnh thêm, trong cơn cuồng nộ phát sinh không hay biết. Chị Thuận, chị Thuận. Tôi vừa gào thét, lồng lộn, đập vào cánh cửa, tôi điên thật sự lúc ấy. Không tiếng đáp, chỉ có tôi bị vây kín bởi cơn giông thốc sau lưng và cơn điên cuồng khiếp hãi. Chị Thuận, chị Thuận, Trí đây... Cho đến khi mệt nhoài, tôi ngồi rũ gục trên đầu gối như con chó lạc trong đêm. Cơn mưa bát ngát vỗ về những thôi thúc. Tôi đuối sức thở hổn hển. Thuận nghe thấy chứ? Ruột gan chị cồn cào như xé, đầu óc loạng choạng rớt trôi trong cơn hôn mê. Chắc chắn chị níu kéo những ý nghĩ nửa chừng phải buông bỏ. Hiệp, em chết, Trí, Trí không làm gì được đâu... Chết như trong buổi sáng khi chúng ta qua đò, ánh đèn xanh trên bến giữa vùng tối thẫm rì rầm mênh mông của nước chảy. Chết như cơn gió thổi xoáy ngoài vàm và tiếng hát lang thang... Chết như chúng ta âm thầm quyết định không nói thành lời... Trí, Trí, tôi cám ơn Trí, cặp mắt hung dữ ấy, như lời dò hỏi như niềm an ủi, như sự khuấy phá... như chính là đôi mắt của nỗi chết hiện hình... Trí. Trí... Không có gì đâu....

 

Cơn mưa dứt tuyệt nín thinh trong thành phố nửa khuya ướt màu nhơ nhớp. Nước trên lộ cao chảy dài trong con mương cỏ êm nhẹ, những giọt nặng rụng trên các tàu chuối dày. Khoảng không đầy gió miên man. Tôi ngồi bó gối trước cánh cửa đóng, thốt nhiên bình thản lạ lùng, trông rõ những hoảng hốt kinh hãi (vài phút trước, vài giờ trước hay vài đời trước?) rút êm xa như những đốm đèn đường thấp thoáng trên lộ. Không rõ bao nhiêu lâu ? Đêm lênh đênh giữa trời như những phút vĩnh viễn thao thức. Tôi ngồi đó, bị loại khỏi thế giới loài người, bị loại khỏi chính mình, không còn một ràng buộc. Tưởng như căn nhà thơ ấu đã bị cơn giông lũ cuốn trôi mất hút tôi còn sống và lưu lạc. Một vài lúc, không tự chủ, tôi cất tiếng kêu nho nhỏ. Chị Thuận, chị Thuận; kêu vậy thôi không mong mỏi lời đáp. Tiếng kêu của tôi cũng như cái tên kia, rốt cuộc chỉ là sự thảng thốt mê sảng bị sự lạnh lẽo nín câm vùi lấp ngay.

Một lúc tôi nghe tiếng chân, tiếng chân không giẫm trên gạch ẩm, đến sau cánh cửa cùng tiếng thì thào êm ái, Trí, Trí phải không ? Sao Trí còn ở ngoài giờ này? Tôi ở ngoài mãi mãi, ngoài cả thân xác rũ liệt giá lạnh đang bốc hơi hôi hám ngoài cái trí não co quắp vì đang nhìn rõ điểm tận cùng của nó... Ngày sẽ tới, chắc chắn sẽ tới. Nhưng với tôi, ngày bắt đầu bằng buổi sáng hủi lở không mặt trời trong mùa mưa mà Diệp sẽ đến, Diệp đến cũng trong gương mặt méo mó của đêm tối còn soi trên, trong đôi mắt của buổi mai mòn mỏi. Thuận mở cửa, dìu tôi vào nhà, nói với tôi, giọng ấm kín, và chông chênh. Nếu Thuận đã mở cửa cho tôi? Tôi níu chặt lấy chị như con thú dữ gặp mồi, tôi thở trên thân chị mùi hương của miền đất mù khơi, của không gian những đời tôi không hay biết. Tôi uống nốt những viên thuốc còn lại, tôi nằm dài cùng chị trên giường và mọi sự sẽ sáng tỏ, có ý nghĩa rõ rệt. Với tôi, với Thuận, với Diệp, với Hiệp, với tất thảy mọi người. Nhưng cánh cửa không mở, không bao giờ mở,

Diệp mặc áo ngắn, tay xách một cái túi, tóc chưa kịp gỡ, đứng dưới hè. Nàng vừa chạy tới từ nơi hẹn, một đoạn đường ngoắt ngoéo với những lối dốc trơn.

– Sao còn ngồi đó ?

Tôi vẫn khoanh tay bỏ gối, không cử động, lúc đó dường như cơn buồn ngủ vây nhốt, tôi cố nhướng mắt ngó Diệp và muốn nàng tới gần.

– Mấy giờ biết không? Sắp sáng rồi.

Tôi lắng nghe vẫn còn tiếng nước chảy trong mương êm ái và tiếng rớt lộp độp thưa thớt trên lá chuối. Tôi vịn vào tường đứng lên, đầu lảo đảo tưởng có thể té.

– Không muốn đi nữa hả? Sợ hả? Tôi quay về nhà còn kịp mà.

Trong các phố chỉ có hai đứa tôi. Tôi nghe hai chúng tôi đi cạnh nhau bị nhốt trong hai thế giới riêng biệt đang lồng lộn phá vỡ khoảng ngăn cách.

– Nói nhiều quá. Thôi đi.

– Anh hèn nhát. Tôi không ngờ anh hèn như vậy.

– Im đi.

– Tôi cứ nói. Tôi không cần anh nữa. Tôi sẽ trở về và đi lấy chồng. Vậy đó. Tôi trở về lúc nào cũng còn kịp. Anh đừng làm phách. Tôi yêu anh, vì anh, nhưng anh đừng làm phách. Vì tôi. Nếu chỉ vì tôi thì cô nên trở về là phải. Tôi không cần.

Diệp ngồi phịch xuống ghế đá đầu vườn bông giữa hai hàng khổ kín cửa. Chợ chưa họp, bến xe chỉ có những chiếc ngủ đêm đậu thưa. Một hai tiệm nước mở cửa đèn sáng không có người. Diệp ngồi thẳng trên ghế ướt, nhìn trân vào bãi cỏ như pho tượng. Tôi đứng dưới một gốc đèn sắt trong vườn, ngửa cổ cho ánh sáng soi lên mắt. Tôi không cần, không cần ai hết, tôi bỏ hết, liệng hết, tôi phải đi một mình... Tôi không cần cô, không cần tình yêu của cô, cô hiểu chưa? Tôi nói và trở nên hung dữ dị thường. Diệp ngó tôi bằng cặp mắt dữ tợn không kém, rồi đột nhiên nàng nhào tới ôm lấy tôi vùng vằng cấu xé. Tôi bám chặt Diệp để khỏi té, mặc nàng lồng lộn không chống trả. Vài phút Diệp dịu dần ôm níu tôi, bật khóc nức: Trí, Trí, anh tàn nhẫn vậy sao? Anh có thể tàn nhẫn với em vậy sao ? Khi em bỏ hết để theo anh... Tôi ngây mặt không thể làm gì nữa. Diệp ôm như riết tôi vào nàng, nàng không còn cần gì khác ngoài tôi. Không ai trông thấy chúng tôi lúc bấy giờ. Một vài tiếng động xa lắc. Tôi ngửng nhìn những tàn cây âm u trên đồi.

– Chị Thuận chết rồi ?

– Vậy hả.

Tôi đáp như chuyện ấy tôi đã biết, một sự thật hiển nhiên chẳng cần phải tìm hiểu. Chỉ khi Diệp nhắc lại, tôi mới bàng hoàng như vừa tỉnh, Tôi vội ôm trả lại Diệp, cơn sốt âm ỉ cháy dưới da thịt nàng, và hỏi: Tại sao Diệp biết ? Diệp không trả lời chỉ nói: Trời sắp sáng đi đi anh. Tôi bảo tôi phải trở về nhà thay đồ, lấy thêm ít bộ quần áo. Chúng tôi ra bờ sông, chợ chưa có mấy người tới họp. Đứng đợi đò, nhìn mặt nước mù mịt bóng đêm, ngày chỉ mới thấp thoáng trong những cơn gió. Nhưng tôi không thấy một phản ứng nào ở mình, tôi chỉ tự hỏi: tại sao thế? Tai sao lại chết? Thật không? Vì cớ gì? Làm sao Diệp lại biết? Tôi không hỏi Diệp, không hiểu sao, như đã vẫn biết cái chết ấy trước cả Diệp nữa. Bờ xa tối đen tịch mịch không ánh lửa Diệp thúc hối tôi kêu đò cho kịp, tôi nói không cần, đò sẽ đưa những người đi chợ qua, Diệp không chịu, nàng bắt tôi kêu. Tôi kêu hai ba tiếng, vọng trên mặt nước, tiếng gọi dội vào tôi lại làm tôi khuấy động, nổi giận. Chúng tôi có thể lại đi lòng vòng trong các phố gây gổ nữa, rồi cuối cùng Diệp trở về nhà nàng.

Con đò bơi sang, chở ba bốn người đi chợ với gồng gánh, thúng, mủng. Diệp nhất định theo sát tôi từng bước, không chịu ở lại chờ tôi qua. Từ giờ này anh không được bỏ em một mình, Diệp nói vậy. Giữa dòng, mưa đổ nhỏ và nước chảy xiết. Thành phố nhòa nhạt những bông đèn hiu hắt. Diệp trùm chiếc khăn mỏng buộc lên tóc, ngồi sát vào mình tôi. Người chèo đò trùm chiếc khăn bông dài trên đầu, quấn quanh cổ, che gần kín khuôn mặt gầy tối. Trên lối quen dẫn về nhà, tôi đi mau khiến Diệp hốt hoảng đuổi như sợ tôi biến mất trong bóng tối dầy đặc của vườn cây, Tôi cậy cửa lên vô nhà theo lối sau như tên ăn trộm không ai hay; mò mẫm trong tối rờ mó các đồ vật đã thuộc lòng. Trong một phút, khi thay xong quần áo, tôi đứng bên cạnh giường. Trên bàn thờ, ngọn đèn nhỏ bằng đầu tăm cháy suốt đêm, trong gian nhà ẩm ướt chẳng nghe tiếng động chỉ có tiếng là khua nhẹ ngoài vườn. Có thể mọi người đều chết? Cả Diệp nữa, khi tôi ra đến nơi cũng chỉ kịp ôm lấy một cái xác lạnh ngắt. Tôi vội ra khỏi nhà, không mang theo một món đồ nào. Gặp Diệp đứng núp trên đầu thềm, tôi mừng rỡ được giải thoát khỏi nỗi kinh hoàng đột ngột. Bây giờ chỉ còn một niềm hân hoan vô lý kết buộc chúng tôi trên lối đi. Như trong cơn mê thật dài. Mùi đất sình nồng, những chiếc lá ướt đụng vào cánh tay, mặt vải nõn êm cọ trên má, bên dưới là mái tóc dây đen như đêm. Tiếng chèo vỗ khuấy trên mặt sông rộng, nước lóc bóc trong khắp thuyền, thành phố sáp gần trong ánh đèn nhấp nháy như một buổi hội sửa soạn khai mạc. Một ngày hội buồn có những người chết, những tiếng cười giấu giếm, không kèn trống, tiếng rì rào của đám đông khuất mặt tiếng reo hò khủng khiếp rồi sự im lăng kéo dài nỉ non lẫn trong cơn say sưa cùng độ. Thân thể rỗng như cây già khô héo chôn chứa mọi nỗi phiền hận hân hoan cùng một lúc. Buổi mai nhạt phân ranh trời và nước ở cuối sông.

Chuyến xe lô đưa chúng tôi khỏi tỉnh khi thành phố chưa thức. Đường phố mờ ướt, trời trắng nhợt soi khuôn mặt Diệp nằm nghiêng trên ghế co ro trong cơn sốt. Trong khoang xe thắp một ngọn đèn nhỏ vàng mờ. Ở trạm kiểm soát đầu tỉnh, người cảnh sát trùm áo mưa ngó mặt nhìn vào, tôi nép khuất vào hốc ghế trong vùng khum của mui như muốn giấu mặt, người tài xế thản nhiên gác tay trên bánh lái hút thuốc. Khi xe chạy mau giữa đồng, gió thốc ào ào như cơn mưa lớn và tới, mặt mũi tê dại trong giấc ngủ mở mắt. Diệp run rẩy mê man và tôi không còn đủ sức để vỗ về ủ ấp nàng. Chỉ thấy những ý nghĩ loáng thoáng bay hút trong gió lộng như cảnh vật bên đường. Đến đâu ? Chúng tôi đi đến đâu ? Những gì đã xa tới ? Sẽ xảy tới? Thuận đã chết. Thật sao ? Làm sao Diệp biết được? Một vài giây tự trấn tĩnh, tôi ngó thấy Diệp úp mặt vào bụng tôi thở phì phò mệt nhọc, khuôn mặt lầm lì của người tài xế ngó thẳng con đường phía trước với dãy phố lỳ ngắn đang hiện tới. Con lộ đi thường ngày mở vào chốn lạ hoắc. Tôi đang làm gì ? Tôi có thể bảo xe quay lại, trả Diệp về nhà nàng, rồi tới gian nhà có Thuận ở trong, đợi đón Hiệp ở cửa. Một đêm trắng vừa qua, còn vất vưởng trong cảm xúc nhưng nghe đã biệt mù trong một dĩ vãng. Tôi nắm bàn tay lạnh giá của Diệp như bấu víu vào thực tế. Tiếng máy xe độc điệu như một khúc nhạc không thành hình. Tôi không gắng gượng được lâu cơn ngủ vùi dần tôi xuống trong cảm giác trơ trẽn lõa lồ. TRÍ. TRÍ... cả cái tên của tôi cũng vang vọng một cách giả trá trong đầu. Tôi có phải là TRÍ không ? Có phải không?

Những buổi sáng ấy lạnh giá, sương mù. Dưới cửa sổ lũng thấp rừng thông trắng xóa mờ mịt, trong thinh không sự di động nặng nhọc của từng lùm gió dầy ướt. Những buổi sáng lúc nào cũng cũ xỉn, bất biến, chết. Hơn bao giờ tôi hiểu rõ cái đích của trí tuệ không ràng buộc là cõi chết; cõi chết, hun hút không cùng như sự mở rộng ngoài giới hạn của một ý thức chờn vờn không đối tượng. Cái ý thức tự ôm lấy mình, quay tròn theo một sức hướng tâm, chống chọi với ngoại giới muốn hút nhập mọi sự vật, thể hiện tuyệt đối một tự do trong suốt kỳ cùng; nỗi câm nín xao xuyến như những cụm sóng gầm gào giữa biển khơi, những đùn mây bay xóa trên lưng trời. Tôi nhìn diện mạo của ý thức ấy qua Diệp đang kết thành. Gương mặt đằm thắm hốt hoảng, nụ cười mơ màng che giấu ý nghĩ, cử động buông thả theo cảm xúc, những cơn thịnh nộ đột ngột của yếu đuối, bất lực và khao khát... Diệp chính là hiện thân của ý thức ngông cuồng lúc khởi thủy vụt sáng rỡ muốn rút bỏ mọi ràng buộc, rứt bỏ quá khứ để thực hiện nhưng bị đè nặng, trấn áp vì những sức lực vây quanh, Diệp chính là tôi, thân thể nàng là một phần của tôi, linh hồn nàng tôi đã quyến rũ để chứa chấp tôi. Tôi nhìn rõ buổi mai ấy, buổi mai chết lặng như từng mớ ảo tưởng, như một vết thương vẫn ngâm ngâm làm độc, buổi mai chất chứa trong nó cả một đời sống phải sống, một tình yêu phải nhận. Chỉ còn hai chúng tôi nhìn thấy nhau như soi trong một tấm gương chung. Tôi nhìn cả cái bóng dáng của chúng tôi.

Tình yêu của chúng tôi ? Không đúng, không thể gọi được như thế. Đó không còn là tình yêu, nó là một cái gì hơn thế. Nó là một mối ràng buộc chỉ thắt lại trong cõi chết, mối ràng buộc vô lý ở ngoài tầm sống, nhưng ở cõi chết đó không có tình yêu và không thể có tình yêu. Phải không Diệp ?

 

Chúng tôi xuống tới Sài-gòn, trời vẫn chưa sáng hẳn. Phố xá nhơ nhớp bẩn thỉu. Tôi ghé về nhà trọ nhặt ít bộ quần áo, nghe tiếng còi xe lửa khởi hành trong ga. Tôi tự hỏi : Chúng tôi đi đâu đây? Chúng tôi đang làm gì? Diệp cũng không biết, trong túi xách của nàng mang theo hai chục ngàn đồng lấy trộm của gia đình, tiền dành cho nàng sắm sửa đám cưới. Trong ánh sáng bẩn của buổi mai dưới mái hiên bên lề đường, Diệp đợi tôi với gương mặt thất thần bệnh hoạn. Nàng cười giơ tay vẫy, gắt gỏng, cằn nhằn, chảy nước mắt thở dài, ngó tới ngó lui ngoài phố, thúc giục:

– Đi đâu giờ ? Trời sáng rồi... Ở đây thế nào cũng có người ngó thấy.

Tôi buồn ngủ muốn chết và tôi nghĩ nên đi xa. Và chúng tôi lại lên xe. Ngồi giữa người tài xế và tôi, Diệp gục đầu vào vai tôi thiếp đi, còn tôi không ngủ được. Tôi giương cặp mắt mỏi mệt nặng trĩu, ngó con đường sáng lần trước mắt, nhiều lúc bị rút sâu vào giấc ngủ nhưng vẫn trồi lên thoát. Xe đỗ lại trạm nghỉ, hành khách xuống hết, chúng tôi vẫn ngồi im tại chỗ. Bắt đầu từ đây chúng tôi sẽ leo dần lên cao. Trong cánh rừng dài mát mẻ trước khi lên đèo bướm dại bay nhởn nhơ trước mũi xe ngã đập lả tả vào mặt kính, Diệp tỉnh dậy, chúng tôi cùng ngó xuống những thung lũng sâu thẳm xanh rờn dưới chân đèo, những dốc núi dựng choán tầm mắt cây cối nhỏ li ti. Diệp mỉm cười xanh tươi như cây lá. Chúng ta đi đâu đây? Tôi bảo: Bây giờ đến phiên tôi ngủ. Diệp quàng tay đỡ lấy đầu tôi. Con đường lên xuống, ngoằn ngoèo, qua hết cả buổi sáng. Tôi nghĩ lặng lẽ dịu dàng: Thuận vẫn ngủ trong nhà, đợi Hiệp trở về. Buổi sáng này Hiệp cũng thức dậy sớm, trong một buồng lữ quán không kỷ niệm, nhìn qua cửa sổ thấy bãi biển vắng hoe và nghĩ đã đến lúc phải về với Thuận. Hiệp mở cửa vào nhà đứng nhìn Thuân thiêm thiếp trong cơn sốt. Tôi nhắm mắt hỏi: Chị Thuận không chết phải không Diệp? Có lẽ Diệp không nghe, rồi tôi ngủ quên hẳn. Khi tôi tỉnh dậy, tay giá lạnh, nghe hơi nóng tỏa trong thân Diệp chuyền sang, xe đang bắt đầu leo con đèo cuối lên thành phố và trời âm u như trong buổi chiều. Tôi ngó lên dòm nét mặt Diệp sững sờ như tượng đá. Chúng tôi đang đi đâu ?

Có phải chúng tôi bắt đầu một cuộc tình? Thuận đã nói với Diệp: người đàn ông tìm một điều gì khác qua tình yêu. Lúc này tôi nghĩ với tôi, tôi tìm chính tình yêu, tình yêu đích thực như sự lựa chọn khởi đầu. Nhưng trong khung cảnh đời sống quen thuộc nhàm chán, cái người ta gọi là tình yêu chỉ là một sự níu kéo trở lại những gì muốn dứt bỏ, từ chối. Tôi muốn một đời sống khác. Có phải chúng tôi đang đi tới đời sống ấy chăng?

Không mục đích, chúng tôi đặt chân xuống thành phố chưa một lần nào nghĩ tới. Tôi tự hỏi: Tại sao chọn nơi này? - thành phố nghỉ mát sang trọng và trưởng giả. Cái chết cũng là một thói trưởng giả chăng? Tôi chỉ có ý nghĩ bỏ đi thật xa. Và đây là nơi xa xôi nhất trong trí tôi. Thành phố hợp với Diệp, với những ý nghĩ lãng mạn của nàng. Diệp được chết làm kẻ tình nhân say đắm, nằm lại trên một ngọn đồi nghe gió trong những rừng thông xa gần và những đôi trai gái tới thăm mang hoa phủ lên mộ nàng mà thề thốt. Diệp được sống những ngày rũ bỏ sạch quá khứ và tương lai, sống trước cái chết của mình trong mộng tưởng giữa cảnh vật đồng tình, Diệp dẫn tôi vô chợ, mua áo lạnh cho hai đứa. Nàng ngửa cổ cười mắt khép nhỏ, ngắm thử áo cho tôi, nói:

– Anh biết chúng mình lên đây làm gì không? Anh biết chớ...

Con ngươi đen láy của Diệp tia ra những ánh sáng tiết lộ ý định thầm kín của nàng. Tôi rùng mình gặp lạnh, cái chết ấp ủ thần trí tôi từ ngày lớn lên nhưng chưa lúc nào nó mở tay choàng siết tới như thế. Chúng tôi mướn phòng tại lữ quán, một biệt thự hai tầng có vườn rộng um tùm, đêm Diệp nghe tiếng chân bước ngoài hành lang, tiếng lá rụng lăn dưới sân và sợ hãi. Nàng dong đèn ngồi trong chăn, bắt đầu nói chuyện. Tôi kể lại những cảm tưởng khi nhìn thấy nàng lần đầu tiên trong hành lang nhà giam qua hàng rào sắt, tôi đã nằm áp mặt trên nền xi-măng nháp gần cửa đề ngó nàng; tôi hỏi nàng còn nhớ những ngày ấy không và nàng lắc đầu bảo không thích nghe những chuyện cũ. Tôi lại hỏi hồi ấy vì sao nàng có ý định bỏ ra Bắc, nàng đáp: “Em không có ý định nào hết. Em nghe lời ông Hoanh. Bây giờ em nghe lời ai ?” “Ông Hiệp và một người nữa…” “Không khi nào em nghe lời anh sao? Không khi nào”. Chiều bữa sau ngoài phố trở về nhà trọ, chung tôi gặp dưới buồng khách một đôi vợ chồng mới cưới. Họ làm quen hỏi chuyện, lầm tưởng chúng tôi cũng đang hưởng tuần trăng mật. Người chồng cười khì: “Lạnh quá há. Chúng tôi lên đây gần tuần lễ rồi. Đi chơi hoài hai đứa bắt đầu buồn. Gặp anh chị có bạn may ra tụi tôi ở thêm được vài bữa nữa....”. Ngay khi lên phòng Diệp nhất định đòi đổi chỗ khác.

– Em không muốn gặp ai hết.

Chúng tôi tới một khách sạn sang ở trung tâm thành phố. Hành lang dài thẳng bít bùng ấm áp khách sạn lớn rộng ba tầng nên khách trọ chỉ trong thoáng thấy nhau xa xa. Đóng cửa phòng lại, cả ngày không nghe một tiếng động nhỏ. Diệp sợ cái không khí im lặng rình rập đây bất trắc. Suốt ngày chung tôi đi trong thành phố, đứng bên hồ xem người câu cá, cưỡi ngựa, vào quán ăn cơm. Buổi chiều chúng tôi lạc đến những vùng xa trung tâm, đứng trên các mò gò cao nhìn xuống những vực sâu, Thành phố lạ mặt lô xô khi quay mặt lại. Đêm đến Diệp cũng vẫn không ngủ được, nàng sợ ánh đèn sáng tĩnh như trong nhà thương, sợ những bóng ma bên ngoài. Tôi không còn chuyện gì đề kể, tôi chỉ còn những câu hỏi. Và tôi hỏi Diệp như tra vấn. Diệp khóc, tức giận, gầy gò, cào cấu :

– Anh tàn nhẫn. Anh khốn nạn.

Tôi cũng la lên, gây tiếng động, đôi lúc tôi muốn đánh đập nàng. Nhưng tôi bình tĩnh lại được. Diệp khóc, nói một mình, tưởng tượng cảnh ba má nàng đang nháo nhác tìm kiếm khắp nơi và nàng nguyền rủa tôi ác độc. Tôi nói:

– Không phải tôi. Chính cô, cô muốn như vậy. Cô nhận lấy... đừng đổ vấy trách nhiệm.

 Và tôi tới mở cửa sổ đứng nhìn rừng thông tối xào xạc, nhìn bầu trời kín gió mờ mờ. Cho đến khi Diệp kêu lạnh, bảo tôi đóng cửa, Diệp mệt và ngủ thiếp. Tôi thức đợi sáng, nhìn Diệp ngoan ngoãn yếu đuối úp mặt vào vai tôi, thấy tất cả cũng chỉ là trò chơi của cái ý thức ngông cuồng tự bôi xóa bởi đã nhận dạng được mình. Tình yêu cũng chỉ là sự toa rập với nỗi chết lớn lao trong đáy cùng của hữu thể. Vậy thôi.

– Tại sao anh không yêu em? Đến chừng nào... đến chừng nào nữa... Trí.

Thân thể Diệp phủ đóng một lớp băng mỏng trong tay ôm nhưng không ngăn nổi hơi ấm thầm thì của dục tình. Buổi sáng nhờ nhờ trên khung cửa kính như nụ cười dài mệt mỏi. Tôi ôm Diệp, nghĩ đến Thuận; tôi nghĩ chị đang đi trong buổi sáng trong mát hơn bên bờ sông trông sang xóm làng bên kia bờ nơi đó chắc chắn trong những ngày tới sẽ lại dấy động những tiếng súng nổ; tôi đã bảo với chị, tôi ở đó từ ngày nhỏ và tôi lớn lên, tôi muốn bỏ đi, Hiệp cười : Làm thế nào hơn được ? Phải không Trí ?

– Thuận đã chết, chết thật, và Diệp cuốn tròn trong tay tôi.

– Tại sao anh không yêu em ?

– Anh yêu em. Và cũng không hơn gì...

– Chúng mình sẽ chết, chết trong hạnh phúc.

Không phải, đó là chuyện của người khác, người khác sẽ cảm động mà nói như vậy. Còn anh ? Anh biết rõ, không phải. Thân thể của Diệp mở ra như một vòm cửa tối đón tôi vào. Vòm cửa đó dẫn đến một khúc sông lặng lẽ tuyệt mù dưới bầu trời nhạt không chuyển động, nơi đó chúng tôi kêu gọi tên nhau và nhìn thấy nhau.

 

– Diệp. Diệp. Bàn tay Diệp lạnh se, không còn của đau ốm, cái giá ngắt của khí trời trên độ cao bao tẩm. Con đường dài hút vắng, một bên thấp ngang là bãi cỏ không một bên dốc đồi với những cây thông xum xuê che kín màu trời. Trên cao lẫn giữa các gốc thông, có lẽ có một con đường nhưng không thấy bóng người và xe cộ. Trên sườn dốc một con bò thả giữa các gốc cây. Trước mặt cũng như sau lưng im lặng trải dài trong tiếng gió chạy qua các hàng thông. Xa nữa ở khoảng cao hơn đã từ đó đi xuống, tiếng máy xe lôi nổ inh trong bầu không khí như rỗng. Con đường này đi tới đâu? Cũng không biết. Cứ đi rồi biết. Lạc đường về à. Coi chừng. Lạ lắm chúng tôi chưa hề đặt chân tới, trong tưởng tượng cũng chưa.

Tôi cười giễu. Lạc? Thành phố này là thành phố hoàn toàn lìa khỏi cảnh vật thân quen, ở nơi này mỗi bước chúng tôi lạc trong cảnh lạ và trong tưởng tượng của tôi cũng chưa hề một lần xuất hiện. Ở nơi này tôi hoặc sùi sụt dưới vùng thấp.

Em biết mà không cản. Như thế... Chị ấy muốn chết, em làm sao cản được. Em không cản, em còn... Lỗi tại anh Hiệp. Trước sau chị ấy cũng... Nhưng có em ở đó. Em làm gì? Em làm gì? Em làm gì, anh đều biết. Đừng giả bộ...

Diệp hung dữ, vùng vằng giật cánh tay tôi. Đừng giả bộ. Bên đường hai người Thượng đeo sau lưng hai bó củi miệng ngậm điếu, cắm củi đi ngược chiều.

– Ừ. em đã mua thuốc về cho chị ấy. Em rót nước. em khóa cửa. Và em có dặn chị ấy đừng làm bậy. Anh đã biết mà, anh còn giả bộ ngu ngơ hoài... Em làm như vậy đó. Rồi anh tới ngồi gục đó suốt đêm nghe chị ấy chết. Chính anh ngồi chờ cho chị ấy chết mà...

– Anh không hay biết gì hết.

– Không hay biết gì hết? Nói dễ nghe chưa. Anh cũng không hay biết gì hết rằng anh yêu chị Thuận... Đừng qua mặt em mà. Anh cũng không hay có tấm hình ở bàn sách. Anh cũng không hay là em yêu anh... Phải không? Đúng vậy không?

– Em đừng nói qua chuyện khác.

– Không có chuyện nào khác. Chỉ có một chuyện thôi. Bây giờ thì anh hay chưa? Anh Hiệp với anh biết rõ những chuyện đó mà...

Chúng tôi đứng trước một đầu bờ hồ, mặt nước phẳng im như gương. Hai bên bờ những khoảng đồi trọc đứng nước len vào trong những đám cỏ. Con đường còn chạy tới leo lên dốc giữa một khoảng đồi bị cắt ngang. Ở đây chúng tôi cách biệt hoàn toàn với mọi người và xa biết mấy cái thành phố nhỏ bé rực nắng hoặc sụt sùi dưới vùng thấp.

– Cả em nữa, rồi em cũng như chị Thuận cho anh vừa lòng mà. Anh tàn nhẫn và hèn nhát lắm. Anh cũng như anh Hiệp.

Những lời của Diệp nghe như chính tôi đang nói. Trong vài phút nào. Diệp hiểu hết, trông rõ hết. Còn những lúc khác... Tại sao Những lời của Diệp nghe như chính tôi đang nói. Trong vài phút nào. Diệp hiểu hết, trông rõ hết. Còn những lúc khác... Tai sao Diệp không phải con người này những ngày cũ, những ngày đã tan vào trong màu trời không còn thay đổi của buổi chiều sâu hút bất động? Tại sao Diệp ? Anh sẽ chết cùng với em. Nếu anh muốn. Nhưng em không tin. Tại sao Diệp ? Hồi đầu em nghĩ anh muốn chết trước em. Nhưng bây giờ em biết là không phải. Em cảm biết như thế nhưng không giải thích được.

Diệp không giải thích được, nhưng tôi giải thích được. Tôi ngồi xuống vệ đường nhặt những hòn đất liệng xuống hồ. Diệp đứng, chiếc áo len màu đỏ như màu đất lở trên đồi. Tuy vậy tôi tự bảo tôi phải chết. Trí, mày phải chết, mày phải chết vì cơn điên thực sự không đến  được, không đến với mày mà chuyên nhập vào người khác. Mặt Diệp ngước thắng trông ra hồ, ướt đẫm nước mắt lúc nào.

– Thực sự anh muốn gì?

Tôi cúi nhìn mu bàn tay tái mét của tôi, dang quơ trên đám cỏ quanh chân. Không một tiếng động trong khắp vùng cây cỏ, trời nước. Tôi bị hút trống đi như bầu chân không lơ lửng. Tôi không thể nghĩ lại cũng không thể nghĩ tới. Chỉ thấy mắt tối dần theo mẫu lúc nào.

– Tại sao em lại làm như vậy? Anh có biết không vì em yêu anh. Em thương chị Thuận. Chị ấy đáng thương, nhưng tại sao em lại làm như vậy ? Lúc em chạy đi mua thuốc cho chị, em nghĩ chỉ cần ngủ, chi cần ngủ say để khỏi lo thao thức ngóng chờ anh Hiệp. Chờ làm gì ? Cả cuộc đời mình là sự chờ đợi, những ý muốn tắt ngang. Em biết anh Hiệp không về, em không muốn chị ấy phải chờ đợi. Khi em gặp anh, em nghĩ chính anh là thủ phạm. Anh đã xúi biểu, đã khuyến khích, đã liên lạc giúp anh Hiệp đi khỏi để anh được đến gần chị Thuận, anh biết anh Hiệp đi đâu nhưng anh không nói. Anh chôn giấu Hiệp sẽ không về, một ngày nào anh ấy sẽ không về nữa. Em nghĩ chị ấy sẽ chết, tốt hơn hết, chị ấy chết bây giờ, chết như thế còn khỏe hơn. Anh Hiệp về nhìn thấy đó, nhìn thấy sự tàn nhẫn của mình nằm phơi ra đó không chối nổi. Chính tay em rót nước cho chị Thuận, miệng em nói : chị đừng làm bậy, nhưng bụng em nghĩ: chị làm theo ý chị đi. Đó cũng là ý muốn của nhiều người. Cả ý muốn của em trong đó nữa. Chị chết và Trí sẽ tỉnh giấc. Chỉ còn em, em yêu Trí. Lúc em liệng chiếc khóa vô khe cửa em còn đứng lắng nghe, em vừa sợ hãi vùa sung sướng. Chị Thuận chắc chắn sẽ chết, chết như những ảo tưởng của anh, nhưng em không ngờ thật em là người không ngờ... Chị Thuận chết, chết thật phải không anh? Ảo tưởng của anh cũng chết phải không anh? Tự ý chị muốn chết, không phải tự em? Em chỉ làm theo ý của chị ấy nhưng em vẫn là... Mọi người đều biết chị ấy tự ý muốn chết nhưng em biết là chính em đã phụ lực giết chị ấy. Em làm sao quên được điều ấy. Và chính em, em muốn giết mối ảo tưởng của anh, nhưng anh không còn ảo tưởng thì anh chỉ còn là hình dáng thảm hại mà thôi. Thật ra chỉ là cơn mê muội vu vơ. Lại lúc đêm mà em chạy tới thấy anh ngồi gục trước cửa, em hiểu như vậy...

– Tai sao em làm vậy ?... Có phải chỉ vì em yêu anh và em muốn giết chết những ảo tưởng của anh không? Em chỉ còn có thể nghĩ như vậy. Em thương chị Thuận. Chị ấy đáng thương, nhưng tại sao em lại làm như vậy ?

Chúng tôi trở về đến thành phố với những ngọn đèn lúp xúp trong các lùm cây. Đường vẫn tối dầy những bóng cây, bụi cỏ hai bên lề. Sự mệt nhọc rời rã đây chúng tôi đi xa hơn trong cơn mê muội của thần trí. Tôi bảo Diệp đừng nói nữa, lời nói chỉ phá hủy đi những sự thật chưa kịp thành hình. Thuận đã chết thực. Thuận đã không phải là một ảo tưởng. Cái chết ấy là của chị, của Diệp, của Diệp và của tôi. Nhưng trước hết, đó là sự vĩnh viễn một đời riêng mà tôi không còn muốn dùng tưởng tượng đề tìm kiếm nữa. Trước mắt chúng tôi vẫn mở ra những lối dốc hoang vu đi mãi không hết, không tới được phòng trọ của chúng tôi. Diệp thu tay trong áo hỏi : mình đang ở đâu? Ở chốn này, chỗ nào đối với chúng tôi cũng giống chỗ nào, người nào cũng giống người nào. Chỉ riêng chúng tôi là phân biệt trơ trọi. Diệp nói : gia đình em chắc đang sớn sác đồ đi kiếm. Chúng ta còn bao nhiêu ngày. Anh tính coi ?... Không biết. Người nhà em có thể lên tới đây. Nhưng lúc ấy...

Diệp cất tiếng cười, cười xong chừng như Diệp lạnh nên im hẳn, nhưng tôi còn nghe được mãi âm vang, tiếng cười dẫn tôi vào một chốn vô tư bát ngát của một vùng thời khắc quay vòng nhịp nhàng, rồi kéo dài như một hành lang sáng vô tận. Ở đâu đó trong hành lang, sàn trải thảm cói trên gỗ, giữa những cách cửa đóng giống hệt có một cánh cửa của chúng tôi mở vào trong một gian phòng trắng trần trụi với đồ vật không mang dấu hiệu của người nào, những cánh cửa kín đóng chặt không nghe tiếng động chính chúng tôi gây ra không bay thoát... Tai đêm tối mịt mù được che chở hoàn toàn bằng những nỗi cô đơn, quấn quýt.

Bóng điện treo cao trên trần làm lóa mắt như ánh rực rỡ thấp thoáng. Tôi không còn nhìn thấy ở đó cái thế giới mơ ước không tới được. Tôi chỉ thấy tận cùng ý thức bóng dáng của nỗi chết hoan lac nuốt chửng mọi khắc khoải. Diệp cũng nắm lấy bàn tay tôi như trưa nắng nào ngoài miếu hoang giữa đồng đặt lên ngực nàng bảo : Anh nghe coi... Tôi lắng nghe và hỏi : Em có hối hận không ? Diệp mỉm cười, môi hơi xanh như màu cỏ úa, mắt ướt lấp lánh như gió đang thổi không dứt ngoài cửa gương.

 

Chúng tôi lại dời đến một khách sạn khác ở khu vực xa hẳn trung tâm thành phố. Tòa nhà nằm nghiêng trên một ngã ba dốc, trong một đoạn phố dài chừng mươi căn và những biệt thự lùi sâu tản mác trong rừng cây. Theo con đường ngắn dốc sạn xuống tới một cái hồ khuất giữa những ngọn đồi thấp rải rác cất những ngôi nhà kiến trúc theo lối cổ Âu-tây. Mặt hồ sáng dưới một bầu trời như một lỗ hồng giữa vùng cây cối rậm rạp xung quanh. Buổi sáng từ trên cửa sổ nhìn xuống phố thấy vài đứa nhỏ đùa giỡn trong hiên, những người co ro đi mau tới bến xe đậu nơi góc đường xuống chợ.

Đó là những ngày dài chúng tôi nhốt mình trong phòng với màu sáng không dời đổi trên các ô cửa kính, màu tường xanh dịu, những đồ gỗ nhẵn thín trống rỗng, những cánh cửa kín đóng chặt không nghe tiếng động chính chúng tôi gây ra không bay thoát... Tai men sứ trắng lạnh, tấm gương soi mặt mờ ố cùng những ngày tháng trống rỗng. Tại sao vậy? Tại sao lúc nào anh cũng chỉ kiếm cách buộc tội em thôi. Không có ai có lỗi hết. Chỉ mình em gây chuyện phải không ? Chúng tôi tra hỏi, cật vẫn nhau về cái chết của Thuận, cái chết không đứa nào nhìn thấy nhưng thực rõ ràng theo đuổi chúng tôi tới tận cùng niềm hoan lạc cũng như nỗi sầu khổ bất ngờ, ở sau lưng ở trước mặt, và chúng tôi chỉ có những giây phút rỗng tuếch lìa tan. Diệp không đủ sức chịu đựng, bỏ cuộc trước, vùi mặt vào gối, phô tấm lưng áo trắng toát giấu những quằn quại trong ngực. Tôi chới với như bước hụt liên miên, rớt sâu xuống vực tối không đáy.

Phòng ăn của khách sạn mờ tối hơn, giờ nào cũng thắp mấy ngọn điện giấu trong tường. Không bao giờ chúng tôi gặp người khách nào khác, trừ người đầm lai nơi két ít cử động, có lẽ tại chúng tôi xuống vào những giờ sai lạc. Những buổi Diệp lười biếng không rời khỏi giường, tôi ngồi một mình giữa gian phòng rộng trong buổi trưa muộn, người đầm lai cũng không có mặt, không nhiều nổi cớ sao tôi lại ở chốn này. Nếu tôi không ở đây, tôi sẽ ở đâu ? Và Diệp nằm lại trên buồng, đang ngủ thiếp hay chập chờn có khác gì Thuận ? Nhưng tôi có phải là Hiệp không? Chúng tôi cũng giống như thế chăng, hai cái bóng lặng lẽ nơi chốn lạ trong một trò chơi, trò chơi của những ý nghĩ, đặc quyền của trí tuệ. Những đặc quyền, mày không hay mày cũng có những đặc quyền liên đới phải bảo vệ với cái xã hội này... Thật không anh ? Anh có biết chút gì không? Nói em nghe. Không. Anh không biết gì cả, anh không thể nào biết được gì cho đến khi nào trí tuệ tự xóa bỏ... Phải không ? Như những phút nín thinh của buổi chiều trên hồ, nụ cười bàng hoàng ngơ ngác của Diệp, trong tiếng thông reo cao, màu hoa sặc sỡ sau hàng rào lỏng lẻo của một ngôi nhà hoang không người chăm sóc, tôi lắng nghe Diệp nói về chị Lệ như tên của người tôi chưa bao giờ được gặp mặt.

– Anh có tin em đã chạy mua thuốc cho chị ấy. Em đã rót nước đã dặn dò chị ấy đừng làm bậy. Rồi em đã khóa trái cửa, anh không nhìn thấy thật sao, liệng khóa vô nhà. Anh có tin không? Em không chối cãi được. Em không nói khác được... Em nhớ chị ấy đã có lần nghi em với anh Hiệp, nghĩ em yêu anh Hiệp cũng như anh nghĩ vậy. Em quý anh Hiệp, em chỉ quý trọng thôi...

– Có thể chị ấy không chết. Chị ấy đùa.

– Em tin là chị ấy chết. Trừ phi anh Hiệp về kịp. Cả đêm anh ngồi canh chừng ở đó mà. Chị ấy chết. Chính em, em cũng muốn cho chị ấy chết, bởi em cũng thương... Trước sau anh Hiệp cũng bỏ chị, chị ấy nói với em như thế. Không thể cầm giữ được...

Diệp rùng mình, mặt xanh xám, môi lẩy bẩy, nước mắt đầm đìa ngồi bệt xuống bờ cỏ bên hồ ôm hai đầu gối một cách bất thường. Một lát nàng gục đầu ụa khan, rồi ngả người lên cỏ, ngực giật từng nhịp, mắt nhắm khít. Tôi hoảng sợ nắm bàn tay giá lạnh như đã chết, gọi : Diệp, Diệp em có sao không ? Chiều cũ xỉn từ lâu trên mặt nước, phía đồi cây xa mờ tối thoáng hiện khung cửa sổ vừa bật điện. Diệp thở hoi hóp từ từ hé mắt, tôi cúi mặt nhìn. Chính tôi lúc ấy cũng đứng nhìn Diệp chết, không tìm cách ngăn cản. Tôi bỗng mỉm cười, tiếng chó sủa ran đuổi nhau trong đám cỏ cao, đôi mắt Diệp sẫm đen, bất động. Gió thổi lao xao, Diệp ho sặc sụa lay động toàn thân. Tôi bật cười thành tiếng kéo tay Diệp ngồi lên; trò chơi quá mệt, chúng tôi đã biết nơi hò hẹn của mình mà còn mải trửng giỡn.

– Em có gặp chị Lệ... Anh hiều gì không?

Chúng tôi trở về khách sạn, lạc trên đường mòn bị bóng tối vây bủa, len lỏi giữa những đám cỏ, càng lúc càng tiến sâu vào trong rừng cây chi chít và phải nhắm hướng có ánh đèn. Như trong truyện cổ tích hoang đường, chúng tôi nắm chặt tay nhau mò mẫm. leo ngược dốc. Khi thoát khỏi đám cây cối, chúng tôi đứng ở sau lưng khách sạn. Diệp tựa vào một gốc cây lẻ loi nhìn trân bức tường chắn ngang không chịu bước nữa, có lẽ cơn mệt đốc hết hơi sức, tôi đỡ một bên cho Diệp khỏi ngã.

– Anh hiểu gì không? Đừng bỏ em, đừng rời em một phút nào. Em sợ...

Hơi thở gấp. Diệp hôn mê trong hốt hoảng không còn phân biệt được vị trí phương hướng-Em sợ, sợ hết mọi người. Em sợ anh và sợ luôn em Anh hiểu gì không ? Tôi phải dìu Diệp bước chập choạng, tôi chẳng muốn hiểu gì nữa – Dường như khi ấy tôi nghe được tình yêu của chúng tôi. Phải tình yêu chúng tôi hằng tìm kiếm. Một nỗi cô đơn trùm phủ cả hai trong cõi hoang vu sơ khởi.

 

Diệp ngã bệnh, khi về đến buồng. Cơn sốt nóng như lửa đốt hành nàng trọn đêm. Tôi không biết làm gì hơn là ngồi canh chừng nàng, xung quanh không có tiệm thuốc. Tôi đã xuống đường, dò dẫm mấy căn nhà hai bên đóng kín cửa thắp đèn, gió lùa từ những lũng thấp tối đen tê buốt mặt mũi. Không còn xe xuống phố, con đường không thể đi chân. Tôi xin được mấy viên thuốc cảm của gia đình chủ nhân khách sạn cho Diệp uống, nhiệt độ cũng không thuyên giảm. Tôi đành ngồi nhìn, ủ chăn kín cho Diệp, lâu lâu rờ trán nàng nóng như một lò than. Diệp mê man rên rỉ, nói sáng. Tôi kêu Diệp. Nàng không hay không biết. Diệp, Diệp. Một mình tôi nghe tiếng kêu của tôi vô duyên, lạnh lẽo. Nửa đêm, cơn sốt thuyên giảm, Diệp tỉnh đòi uống nước. Chai nước chín lạnh như trườm đá. Mồ hôi vã ướt làm tay chân Diệp giá băng, tôi phải xoa bóp cho nàng, Diệp mỉm cười ngủ thiếp, tôi nằm xuống bên cạnh nhưng vẫn để đèn sáng. Một lát tôi giật mình choàng thức, ngó sang Diệp. Cơn sốt trở lại dữ dội hơn. Đồng hồ mới chỉ ba giờ sáng tôi bước đến bên cửa kính nhìn ra ngoài. Tôi đứng mãi nhìn đêm tối, đợi sáng. Một lúc tôi phân biệt được màu trời và rừng cây. Mặt đất và cây tối sâu như vực. Dưới vực thẳm dần dần hiện những hình thù quái dị, màu nhạt hơn: những mái nhà không đều hàng, cái cao cái thấp. Con đường dốc thấp như con suối đứng im. Trên mặt kính, bụi nước bám mờ, chảy thành giọt. Hơi thở của tôi tỏa thành khói trắng, da tay và mặt căng như muốn nứt. Đèn trong phòng sáng rực như ánh thủy tinh. Sương rơi xuống lúc nào trắng mịt cả một vùng. Tôi tưởng như Diệp đã chết, không nghe tiếng thở. Tôi nhớ đến buổi sáng nào Diệp biến mất trong tầm mắt của tôi, người ta khiêng bước ngang tôi xác chết hồi đêm, buổi sáng ấy cũng mù mịt sững sờ như lúc này, tôi đột nhiên kinh hoàng.

Tôi quay vào, sờ trán Diệp thấy mát mẻ lạ thường. Bàn tay lạnh khiến Diệp cựa mình nhưng không thức. Diệp nói thầm thì trong cơn ngủ: Đừng bỏ em. Em sợ. Tôi bảo: Anh phải xuống phố kiếm thuốc. Tôi khép cửa phòng nghĩ mình phải đi thật mau. Tôi chui vào khoang xe chưa có khách, ngủ gà gật. Sương còn phủ im cảnh vật. Lâu lắm tôi nghe tiếng cửa xe mở, người tài xế già phồng đầy quần áo và khăn ngồi trước tay bánh hút thuốc. Tiếng chân bước lạo xạo, vài ba câu nói trong màn trắng đục. Tiếng máy nổ mươi phút đuổi bớt hơi lạnh. Vài ba người khách nối nhau lên xe. Hai thiếu phụ mang giỏ đi chợ, bốn đứa học sinh, hai người đàn ông thì thầm bàn chuyện to nhỏ... Xe phải bật pha chạy. Xuống đến chợ, tiệm thuốc chưa mở cửa, tôi lang thang kiếm chỗ điểm tâm. Trong tiệm thuốc tôi hỏi cô bán hàng thứ thuốc cảm nào mạnh nhất, uống công hiệu ngay. Cô kể mấy tên thuốc tùy tôi lựa chọn, tôi nhờ cô chọn giùm theo kinh nghiệm chuyên môn của cô. Ra khỏi tiệm thuốc tôi đi chân trở lại bến xe. Và tôi nghe như có người gọi sau lưng: Anh. Anh. Tôi ngó lại người thanh niên lạ mặt đang tươi cười chạy tới. Hắn mang mắt kiếng đen vận âu phục, nói tiếng Bắc :

– Anh đề tôi nghĩ một phút. Tôi sẽ nhớ ra tên anh. Huỳnh văn Trí phải không ?

Tôi ngỡ ngàng giây lâu không nhận ra kẻ đứng trước mặt. “Minh đây, Minh đây. Anh nhớ chưa ?”.

Minh sung sướng hả hê một cách lạ lùng, hắn ôm tôi như một người bạn thân lâu đời rủ đi uống nước ăn mừng. Tôi từ chối bảo bận việc phải về gấp. Hắn không chịu, nói trong ngày như hôm nay không thể còn việc gì gọi là bận. Tôi ngơ ngác không hiểu thái độ của Minh. Hắn nắm cánh tay tôi nói: Phải ăn mừng cách mạng, anh chưa biết cách mạng rồi sao. Tôi nghĩ Minh điên, người qua đường dòm chúng tôi bằng cặp mắt tò mò. Hắn kéo tôi đi, nói luôn miệng, chắc tôi không nghe ra-đi-ô, hai giờ sáng hôm qua dưới Sài-gòn, quân đội đã vây dinh Độc lập, cả ngày hôm qua quân đội đã làm chủ thành phố... Tôi đưa mắt nhìn quang cảnh phố xá, vẫn chỉ thấy người qua lại, mua bán, không có vẻ gì khác.

– Tôi đã nói với anh ngày ấy... không hiểu anh còn nhớ không ? Chúng tôi tin tưởng thế nào cũng có ngày hôm nay... Tôi không rõ anh thay đổi ý kiến chưa, nhưng anh phải nhận rằng chúng tôi không phải chỉ là những người như anh tưởng.

Minh đưa tôi vào trong quán cà-phê, các bàn đều chật toàn thanh niên. Mọi người đang bàn tán đến cuộc đảo chánh dưới Sài-gòn, chờ nghe tin tức ở máy phát thanh. Minh nói hắn đã mua vé xe về Sài-gòn, và hỏi tôi có về cùng không, lúc này cần có mặt ở Sài-gòn. Tôi hoang mang ngây mặt nghe những tiếng hỗn độn vây quanh. Minh vẫn huyên thuyên với tôi về những chuyện đã nói ngày gặp nhau trong trại giam. Một thoáng tôi nghĩ không hiểu Hiệp đang ở đâu, tôi có thể bắt đầu làm được cái gì chăng? Diệp đang chờ tôi trong khách sạn, nàng uống thuốc và sẽ khỏi... Chúng tôi sẽ... Bỗng dưng tôi nghe rớt vào giữa một khoảng nín lặng kỳ lạ. Từ trong máy phát thanh, giọng nói nặng nề quyền uy đè dần đầu Minh cúi xuống thấp, tiếng nói lao xao ở các bàn. Cuộc đảo chánh bị dẹp. Tôi muốn cười lớn phá cái không khí ngột ngạt đặc khói thuốc. Minh đứng lên ra cửa trong lúc điệu quân nhạc trồi lên. Tôi ngó xuống bàn, nhặt gói thuốc, thấy chúng tôi chưa kịp uống gì. Minh đón ngoài hè, cười gượng, ngượng ngùng. Tôi tội nghiệp cho hắn và bảo : Bây giờ chúng ta đi uống cái gì cho đỡ buồn. Chúng tôi bước vào quán kế cận, gọi rượu. Tôi nhắc lại câu của một đứa bạn học cũ ở tỉnh: Uống rượu buổi sáng mới thấm thía đã đời. Lát sau, Minh mới hỏi tôi :

– Anh lên trên này làm gì? Lấy vợ rồi hả ?

– Không. Tôi đi tìm cái chết với người yêu.

Minh cười khà khà vì câu nói khôi hài của tôi: Anh có người yêu ư? Anh còn nhớ anh nói không có ai yêu anh không? Đến khi nào chúng mình gặp lại nhau?

– Chừng nào hả ?... Tôi ghé tai Mình thì thầm. Chừng nào có một cuộc cách mạng nữa.

– Thế thì còn nữa...

– Sợ lúc ấy, tôi chẳng còn...

Minh bá vai tôi cười sặc chảy nước mắt. Minh kêu thêm rượu hoài, tôi phải cố kềm giữ cho tỉnh, tôi nhớ Diệp đang đau nằm đợi tôi trong phòng khách sạn. Tôi phải trở về với nàng, cuộc hẹn hò của chúng tôi không thay đổi. Ôi, sì, cách mạng. Sự thất vọng này làm thành tuyệt vọng cũng chỉ thêm một cái cớ của cái ý thức đang rã mướp. Tôi trở về với Diệp chứ. Tội nghiệp. Tội nghiệp tất cả mọi người. Thuận, Hiệp, Diệp này, Minh này... Tội nghiệp cả tôi nữa. Tôi chưa hề bao giờ thương tôi cả. Thật là khốn kiếp. Ngoài trời nắng đang già trên nóc chợ. Người bứt rứt như kiến cắn. Ra khỏi quán, Minh nhất định chưa chịu buông tha tôi :

– Anh về với tôi. Chốc nữa mình lại uống nữa...

– Không. Tôi không thể để nàng chết cô độc được...

– Anh sướng hơn tôi rồi. Bao giờ gặp lại nữa ?

– Lần cách mạng sau.

Minh lại cười ngoặt nghẹo, tôi bỏ băng qua đường xuống bến xe. Chuyến xe chật ních, không chỗ ngồi, tôi đứng níu cửa sau xe nhiều lần tưởng muốn nhào lăn xuống các vực dốc, nhổ nước miếng tung tóe vào trong gió. Anh lơ choàng tay giữ tôi, cười bảo: Khỏi lo. Tôi vào đến phòng: không còn Diệp trên giường. Tôi lắng nghe tiếng nước chảy trong bồn tắm, lên tiếng gọi Diệp. Rồi tôi không gượng được nữa, ngã xuống giường, mửa thốc ra sàn, thở hào hển và ngủ vùi. Lúc tôi tỉnh lại, miệng khô đắng, đầu năng nhức, tôi tìm nước uống. Nhìn qua cửa kính trời đã hết nắng, cây đứng im dưới một màu trời thiếc xin không rõ giờ giấc. Vẫn không có Diệp. Tôi ra khỏi phòng xuống đường, đi theo lối dốc men xuống hồ, cất tiếng gọi: Diệp ơi. Tôi nghe tiếng khàn khàn của tôi vang lên một cách vô lý. Tôi thôi kêu, ngồi xuống ven hồ, đầu óc trống rỗng vẫn vang đập tiếng gọi đã im. Diệp. Diệp. Diệp ơi. Tôi ra nước mắt. Tình yêu đó, tiếng la bị nhốt trong đầu không ai nghe. Diệp đi đâu? Diệp đã tới nơi hẹn trước tôi rồi. Giờ đang vào chiều và nàng lạnh biết mấy. Người ta sẽ tìm thấy nàng. Tôi có chạy kiếm nàng cũng không kịp. Tôi trở lên đường, ghé tiệm tạp hóa mua hộp dao bào, về khách sạn. Người trong khách sạn dòm tôi bằng cặp mắt dò xét thấy tôi trơ trọi. Trong phòng, ngọn đèn điện thắp từ đêm trước vẫn cháy. Cái sắc tay của Diệp còn trong tủ. Tiền chúng tôi tiêu mới hết một nửa, Chai nước chín đã cạn sạch. Mặt gối còn vương mấy sợi tóc rối của Diệp và hơi nồng trên dấu trũng. Diệp đã đi xuống những lối dốc gai góc một mình, nhìn ngọn thác đổ ào ào trên các phiến đá nhẫn. Làm sao Diệp đã tới được nơi ấy ? Diệp đứng cho đến khi run rẩy, biết không thể nào còn sức leo ngược dốc trở về. Diệp đứng đó cho đến trời tối... Phải không Diệp? Người ta sẽ tìm ra Diệp, tôi, tôi phải đến nơi hẹn với nàng.

Tôi sách chai vào buồng tắm, hứng nước trong vòi, uống hết ống thuốc mua cho Diệp. Những viên thuốc nghẹt vướng trong cổ và ngực khó chịu. Rồi tôi nằm trên giường, kéo chăn đắp, mở lưỡi dao bào. Lưỡi thép mềm mỏng, mát lạnh gai bén. Tôi mím môi, nhắm mắt, nói trong đầu : Trí, đây là trò chơi cuối cùng. Mày không điên, không bao giờ điên cả. Xong tôi nằm ngửa, giấu tay vào trong chăn mỉm cười. Trí, ngọn đèn vẫn cháy và hình như cửa phòng chưa đóng. Người ta sẽ tìm thấy Diệp như đã tìm thấy Thuận. Ánh sáng lóa rực như những đốm lửa trong vòm trời âm u, chất ngất những hình bóng giá buốt. Niềm hân hoan tuôn chảy không kìm giữ, đưa như chiếc võng lắc mạnh. Tôi nghe những tiếng la gọi vang âm như từ trên những đỉnh núi cao xa, mây dồn cục che khuất. Những tiếng la gọi của một cõi đã mơ hồ... Tôi không điên, không bao giờ điên. Phải không ?

1963-1966

 

 

 

 

No comments:

Post a Comment